Phát
biểu của cha Timothy Radcliffe trước Giáo sỹ đoàn Dublin,
Ai-len
Vào
tháng mười một vừa qua, Báo cáo Murphy (Rapport Murphy) đưa
ra ánh sáng việc một số các giám mục Ai-len đã che giấu
những hành vi lạm dụng tính dục đối với trẻ em của
một số linh mục trong suốt hơn 30 năm1.
Chính trong hoàn cảnh này, cha Timothy Radcliffe, tu sĩ đa
minh người Anh, nguyên BTTQ dòng Anh em thuyết giáo, được
mời thuyết trình vào cuối năm 2009 trước các thành viên
của giáo sỹ đoàn của Tổng giáo phận Dublin (Ailen), để
giúp các ngài suy tư nhằm đối diện trước tình trạng
hết sức đau thương này.
Bản
gốc tiếng anh của cha Timothy Radcliffe2
“Hãy
đến với ta, hỡi những ai mang gánh nặng nề”
(Mt
11, 25).
Thật
là ưu ái và vinh dự cho tôi được ở đây giữa anh em
ngày hôm nay. Tôi đã rất vui được cử hành một cuộc
tĩnh tâm cho các giáo sỹ của tổng giáo phận này cách
nay hai năm và tôi vui mừng vì lại được hiện diện
giữa anh em một lần nữa. Đây là một thời điểm hết
sức khó khăn đối với Giáo hội, tại Anh và Ai-len,
nhưng còn hơn thế nữa đối với anh em vào lúc này.
Chủ
đề của những ngày tĩnh tâm này là : “Hãy lui ra xa, và
hãy nghỉ ngơi đôi chút”. Tôi tự nhủ rằng việc suy
niệm bản văn của Mat-thêu gợi nên rất nhiều sự nghỉ
ngơi : “Hãy đến với ta, hỡi những ai đang mang gánh
nặng nề, và ta, ta sẽ cho anh em nghỉ ngơi. Hãy mang lấy
ách của ta, hãy trở nên môn đệ của ta, vì ta hiền
lành và khiêm nhường trong lòng, và anh em sẽ tìm thấy
sự an nghỉ. Đúng, ách của ta thì dễ dàng mang vác, và
gánh của ta nhẹ nhàng”. Nên, tôi hy vọng rằng sẽ
không nói đến những tranh luận về sự nghỉ ngơi và
nếu anh em có an nghỉ đi nữa, thì đơn giản hãy tránh
ngáy to tiếng !
Đức
Giê-su nói với các môn đệ của mình : “Hãy đến với
ta”. Đó là lời mời đến sự thân thiết. Các môn đệ
được mời đến tìm kiếm sự an nghỉ trong tình bạn
của ngài. Chính điểm này mà tôi mong muốn xem xét một
chút. Cách thức mà chúng ta có thể, vào giai đoạn khó
khăn này, tìm thấy sự nghỉ ngơi trong tình bằng hữu
với Chúa.
Giáo
hội đang trải qua một cơn khủng hoảng khủng khiếp,
không chỉ duy nhất ở Ai-len, mà còn ở Anh, ở Hoa Kỳ và
ở Úc. Tuy nhiên tôi cho rằng, như tôi đã nói đến trong
cuộc tĩnh tâm này, chính khi đi qua những cơn khủng hoảng
này mà chúng ta có thể tiến gần đến với Thiên Chúa.
Những thời điểm tồi tệ nhất chưa từng được biết
đến trong Israel là sự phá hủy Đền Thờ ở thế kỷ
VI, việc bãi bỏ chế độ quân chủ và lưu đày bên
Babylone. Israel đã mất tất cả cái mà nó đặt ra để
làm nên căn tính của mình : việc tế tự, thể chế quốc
gia và vương triều. Nhưng nó đã khám phá ra rằng Thiên
Chúa chưa bao giờ gần gũi với nó như thế. Thiên Chúa
hiện diện trong lề luật, nơi miệng lưỡi và trong lòng
của những người dân, nơi họ ở, cho dù có cách xa
Jerusalem. Ngày thứ hai, trong khi tôi chuẩn bị bản văn
này, chúng ta đã hát kinh thần vụ Giờ Sáu : “Con
vui thú với mệnh lệnh của Ngài/ và hết lòng yêu mến./
Mệnh lệnh Ngài, con giơ tay đón nhận,/ thánh chỉ Ngài,
con sẽ ngẫm suy. ”
(Tv 119, 47-48). Israel chỉ đánh mất Chúa để nhận ra ngài
gần gũi hơn với điều mà họ chưa từng nghĩ tới.
Và
Đức Giêsu, con người đầy bất ngờ này, đã hiện
diện, phá bỏ luật yêu thương, ăn uống ngày sa-bát,
đụng chạm đến những người ô uế và tiếp xúc với
các cô gái điếm. Có vẻ như ngài đang cố gắng phá đổ
mọi thứ mà dân này ưa thích, chính cách thức Thiên Chúa
hiện diện trong đời sống của họ. Nhưng đó là duy
nhất vì Thiên Chúa muốn hiện diện theo cách thức còn
thân thiết hơn nữa, như một trong số chúng ta, với dung
mạo con người. Và mỗi thánh lễ, chúng ta nhớ lại cách
thức mà chúng ta sắp mất ngài. Nhưng, một lần nữa,
duy chỉ đối với việc lãnh nhận ngài còn gần hơn nữa,
không như một con người giữa chúng ta nhưng như chính
cuộc đời chúng ta.
Cuộc
khủng hoảng đang nổi lên này là cơ hội để khám phá
Đức Giêsu còn gần gũi chúng ta hơn những gì chúng ta có
thể tưởng tượng ra. Tình trạng này là kết quả từ
chính thất bại của chúng ta cũng như của Giáo hội,
nhưng Thiên Chúa có thể làm từ đó một điều tốt, nếu
chúng ta sống điều đó trong đức tin. Và chúng ta có thể
vì thế mà an tâm. Một hôm tôi đang tán dóc theo thói
quen về chủ đề này, một người anh em người Mỹ của
tôi tặng tôi một chiếc áo T-shirt mà anh làm riêng cho
tôi và trên áo có in hàng chữ “Không gì như một cuộc
khủng hoảng tốt !”. Tôi định mặc ra đây để cho anh
em xem, nhưng chiếc áo bị co lại cách không thể giải
thích được và tôi không còn có thể chui được vào đó
nữa !
Sức
nặng gánh vác
Khi
tôi còn là một tu sĩ sinh viên Đa Minh trẻ ở Blackfriars,
Oxford, tu viện đã trở thành mục tiêu của một nhóm
thiên hữu không chấp nhận những tham gia của chúng tôi
với nhưng nguyên nhân hướng chiều có lợi cho cánh tả.
Hai lần, những cá nhân này đã cho nổ giữa đêm khuya
một vụ nổ nhỏ gây ra rất nhiều tiếng động ồn ào
và tác động đến các cửa kính. Những vụ nổ đã đánh
thức toàn bộ cộng đoàn, ngoại trừ cha Bề trên. Tôi
đã khám phá với sự kinh ngạc những bộ đồ anh em mặc
đi ngủ ! Pyjama, quần lót, không gì hết ! Cảnh sát và
lính cứu hỏa đã đến. Tôi cuối cùng đã đi đánh thức
Bề trên : “Fergus, tu viện bị tấn công, cha dậy ngay”
“Có ai thiệt mạng không ?” “Không”. “Bị thương
?” “Không”. “Nếu vậy, thì để tôi ngủ và chúng
ta sẽ xem xét vào sáng mai”. Đó là bài học thứ nhất
tôi học được theo nghĩa quyền lực ! Đức Ki-tô đã
chiến thắng. Chúng ta có thể sống bình an thanh thản cho
dù có chuyện chi xảy ra đi nữa.
Câu
hỏi được đặt ra cho chúng ta ngày hôm nay là : làm sao
sống cơn khủng khoảng này như thời cơ của ân huệ và
đổi mới ? Chúng ta hãy tiếp tục nghiêng mình trước
những lời của Đức Giê-su và nhìn xem những lời ấy
gợi lên : “Hãy đến với tôi, hỡi những ai đang mang
gánh nặng nề, và tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi”.
Những
tuần lễ vừa qua này, đối với phần lớn trong anh em đã
phải cảm thấy rúng động dưới sức đè của gánh nặng
này. Anh em hình như cảm thấy bị dồn nén bởi sức nặng
của những vụ bê bối lạm dụng tình dục, bởi sự bất
khả của nhiều vị giám mục trước vấn đề này trong
suốt nhiều thập niên. Anh em hình như cảm thấy bị
triệt hạ bởi cơn giận dữ của giới truyền thông, của
một số giáo dân và còn tệ hơn nữa, bởi sự thất
vọng, đầy buồn bã và đồng cảm, mà đôi khi họ làm
chứng. Vào lúc này, mỗi khi tôi thuyết trình tại Anh,
tôi thường ra về với tình trạng kiệt sức bởi cơn
giận chống lại Giáo hội.
Làm
sao chúng ta có thể phục tùng Thiên Chúa để ngài cất
đi khỏi chúng ta sức nặng đang đè lên đôi vai của
chúng ta ? Ngài nói : “Hãy đến với ta, hỡi tất cả
những ai đang gồng gánh nặng nề”. Tất cả anh em :
điều này có nghĩa rằng chúng ta, tất cả cùng nhau đến
với ngài, với tất cả những ai đang đau khổ dưới
gánh nặng nề. Chúng ta phải đến với ngài cùng với
những người đang mang gánh nặng nề nhất, những nạn
nhân của sự lạm dụng tình dục. Nếu chúng ta muốn đến
gần với Chúa Giê-su, thì chúng ta phải giúp đỡ họ
mang vác lấy gánh nặng của họ. Cử chỉ này có vẻ như
là thêm vào gánh nặng phụ trội, nhưng rốt cuộc cũng
sẽ cho phép cất gánh nặng đi khỏi đôi vai của chúng
ta.
Tôi
thú nhận rằng tôi sợ phải thực hiện việc này. Tôi
sợ cơn giận và hình phạt của những người mà chúng
ta đã bắt họ phải chịu những hành động tàn nhẫn.
Khi tôi nghe nói về họ trình bày trên radio hay trên truyền
hình, tôi hầu như không thể chịu đựng nổi. Tôi muốn
tắt ngay tivi. Nhưng tình bạn hữu với Chúa kéo tôi tiến
lên, cho dù có đau khổ, khi phải mang lấy gánh của họ,
cũng như cơn giận dữ của họ và đau khổ của họ.
Cũng như sự thất vọng và buồn phiền của Dân Chúa. Và
chính những gánh nặng nề của những người anh em linh
mục chúng ta những người đã lạm dụng những ngượi
vị thành niên. Chúng ta phải giúp đỡ họ mang lấy gánh
nặng này. Nếu chúng ta mang lấy gánh nặng của mỗi
chúng ta, thì Thiên Chúa sẽ cho chúng ta sự an nghỉ.
Theo
Tin Mừng thánh Lu-ca, trong Bữa Tiệc Ly, Đức Giê-su nói
với các môn đệ của mình : “Vì, thầy nói với anh em
: để hoàn tất những điều Sách Thánh đã chép về Thầy
: thầy sẽ bị kể vào chung số với những kẻ tội lỗi.
Thực vậy, những gì liên quan đến Thầy sắp được
thực hiện” (22, 37).
Nếu
chúng ta muốn an nghỉ trong tình bằng hữu với Đức
Giê-su, thì chắc chắn chúng ta sẽ bị kể vào chung số
với những kẻ tội lỗi. Một sơ Đa Minh tuyệt vời có
quốc tịch Ai-len đã kể cho tôi về buổi họp mặt của
đại gia đình có rất nhiều người tham dự. Và ở đó
có một cây gia phả lớn, dưới mỗi cái tên là danh sách
các con cháu. Dưới tên của vị nữ tu này cũng như dưới
tên của người anh em họ của chị là linh mục nổi lên
một dấu hỏi to tướng. Như để nói : “Này, chúng tôi
không biết anh chị làm ăn thế nào”. Một ngày nọ, ở
New York, vị giám tỉnh địa phương đã xin tôi đến gặp
một người mà người này khẳng định đã bị xâm phạm
tình dục bởi một tu sỹ Đa Minh đã qua đời từ rất
lâu rồi. Thời gian tôi trải qua với ống ấy và bà vợ
của ông là cực kỳ thử thách. Tóm lại, ông ta kêu lên
rằng : “Chính anh đã làm cho tôi điều ấy !” Chúng
tôi chính xác cùng tuổi với nhau. Tôi còn chưa từng nghe
nói đến Dòng Đa Minh vào thời kỳ đó. Tôi định kêu
lên : “Nhưng điều đó chẳng dính dáng đến tôi !”.
Và thật hấp dẫn để bám vào những sự kiện được
đảm bảo, chẳng hạn vào những nghiên cứu mà, tại Hoa
Kỳ và Anh, cho thấy rằng trong thực tế những giáo sỹ
khác thường có khuynh hướng tuân thủ bản án vi phạm
hơn các linh mục công giáo, dù chính chúng ta cũng chịu
mọi chỉ trích.
Thánh
nhân và tội nhân
Một
trong những cách thức tìm thấy sự an nghỉ hệ tại ở
việc giải thoát khỏi gánh nặng buộc làm người đức
hạnh. Thật là mệt mỏi phải thường trực cố gồng
mình lên làm thánh. Các thánh thường nhắc đến những
kẻ tội lỗi kinh khủng mà họ là, và những lời lẽ
tuyên bố này thường với tôi có vẻ như rất là điên
! Thật quá tự phụ ! Nhưng, chú ý, họ ý thức rõ mối
liên đới của họ với đám đông những kẻ tội lỗi
bình thường.
Tổng
giám mục Rembert Weakland, người đã phải từ chức theo
sau vụ bê bối tính dục và tiền bạc, đã nhắc đến
trong cuốn tiểu sử tự thuật của mình hình thức giải
phóng khỏi cơn khủng hoảng mà ông phải trải qua mang
lại. Ngài cho biết : thánh nữ Thérèse Lisieux “một ngày
nọ viết rằng ngài muốn giới thiệu với Chúa những
bàn tay trống rỗng. Tôi tin rằng tôi biết cách riêng lúc
này điều thánh nữ muốn nói qua những lời này. Tôi
hiểu rõ biết bao bản chất con người thì mỏng dòn,
biết bao nhiêu tôi cần sự ôm chặt lấy tình thương của
Chúa”3.
H.
G. Wells đã viết một điều mới mẻ về Phán xét. Một
người tội lội nặng nề, vua Achab, kẻ thù của Élie,
được đưa ra trước mặt Chúa để bị xét xử. Nhà vua
thốt lên những tiếng kêu la và định cứu mình khi Thiên
thần giữ sổ cái lớn tiếng đọc danh sách mọi tội
lỗi của vua. Vua kết thúc bằng việc trốn vào tay áo
của Chúa. Lúc đó bỗng xuất hiện một vị thánh ngôn
sứ, chắc chắn là Élie. Ngài ngồi trong bàn tay của Chúa
và lắng nghe những việc làm tốt với vẻ tự phụ. Rồi
Thiên thần đi đến những hành động hơi đáng khen :
“Sau một thời gian, vị thánh này bắt đầu chạy tứ
tung trên bàn tay của Chúa ; chính ngài, cũng khẩn nài và
van xin, dưới sự đả kích khắt khe chân lý khủng khiếp
này ; như kẻ dữ, ngài tìm kiếm một nơi ẩn trốn trong
tay áo của Chúa. Chúng ta có thể phân biệt điều đã
xảy ra trong bóng tối của tay áo này. Hai con người ngồi
cạnh nhau, bỏ đi mọi điều giả dối – như anh em, trú
ngụ trong trang phục của tình bác ái Thiên Chúa. Và đó
là chính là nơi mà đến lượt, tôi phải trốn vào”.4
Như
thế, chúng ta hãy mang gánh nặng của mỗi người, của
những nạn nhân, của những ai phạm vào những hành động
tàn nhẫn, của Dân Thiên Chúa. Giải thoát chúng ta khỏi
gánh nặng mà nó hệ tại ở việc cố gắng khẳng định
đức hạnh của chúng ta và tìm thấy sự nghỉ ngơi trong
cánh tay áo của Chúa, với những kẻ đáng thương khác.
“Hãy mang lấy ách của ta, hãy trở thành môn đệ của
ta. […] Vâng, ách của ta dễ giàng, và gánh của ta nhẹ
nhàng.”
Gánh
của Đức Giê-su là Lề Luật của ngài. Trong Cựu ước
(Hc 51, 26) và trong Do thái giáo của các ra-bi, Luật Torah
là gánh nặng đè lên chúng ta. Như vậy tỏ ra tương phản
với những người pha-ri-sêu “những người buộc những
gánh nặng và chất lên vai người khác ; nhưng chính họ
không muốn đụng ngón tay đến” (Mt 23, 4). Trái với
điều của những người pha-ri-sêu, ách của Đức Giê-su
thì nhẹ nhàng.
Như
những người Pha-ri-sêu
Nếu
chúng ta đánh giá Giáo hội thân yêu của chúng ta trong
những thế kỷ vừa qua, chúng ta thực sự có cảm giác
rằng chúng ta cư xử như những người Pha-ri-sêu, khi đặt
gánh nặng lên vai của dân chúng. Mặt này thường được
kết hợp với thái độ đối với tính dục. Chúng ta nói
với các gia đình đông con rằng không có bất cứ phương
cách ngừa thai nào được cho phép, với người trẻ những
người không có phương tiện kết hôn rằng họ phải
kiểm soát hoạt động tính dục cách nghiêm ngặt nhất –
hôn nhau không quá 10 giây – và với những người đồng
tính rằng không có gì cho phép họ hết và họ phải xấu
hổ với bản năng tính dục của họ. Nên, độc lập đầu
đuôi với những giáo huấn của Giáo hội, những khuyến
cáo này đã được những người tín hữu của chúng ta
sống như gánh nặng nề. Và rồi họ khám phá ra rằng
các linh mục những đã dồn ép họ lại phạm những tội
liên quan đến giới tính theo cách còn trầm trọng hơn.
Như những người pha-ri-sêu, khi không làm những gì mà họ
rao giảng. Anh em có thể tưởng tượng ra cơn giận của
một bà mẹ khi phải mang thai hết đưa này đến đứa
khác và không còn có thể mang thai nữa, hay cơn giận của
một bạn trẻ đồng tính, khi họ biết được về chính
những gì mà một số các linh mục này đã gây nên tội
!
Và
cơn giận này còn bộc phát gay gắt hơn nữa khi ấu dâm
trở thành TỘI liên quan đến giới tính. Trong xã hội
thế tục như xã hội Anh, thực sự không có gì khác hơn.
Chương trình Moral
Meze,
được BBC phát sóng tuần vừa qua, đã tập trung vào
trường hợp của người phụ nữ được gọi là Người
đẹp trong ngày (Belle de jour) và cô kiếm tiền để học
tiến sỹ bằng cách “làm gái” bán thời gian. Phần lớn
những khách mời của tiết mục này không tìm thấy điều
gì để chống lại cô. Họ chỉ nhìn thấy ở đó một
mối liên hệ theo hợp đồng giản đơn. Chúng ta làm
những gì chúng ta muốn cho thân xác của chúng ta. Và phải
chăng ác dâm không đúng là đã dự phần vào cốt lõi
phức tạp của những kinh nghiệm tính dục ? Vì một lý
do lạ lùng, tại Anh, nó có vẻ như hấp dẫn được tầng
lớp thượng lưu của xã hội. Toàn bộ mối lo lắng xung
quanh hành vi tính dục này, tất cả tình cảm nào đó
không bình thường, toàn bộ nỗi kinh hoàng tập trung trên
ấu dâm. Kẻ âu dâm là kẻ phạm tội nặng về tính dục,
kẻ có tội duy nhất. Tôi không muốn bất cứ cách thức
nào nhằm giảm nhẹ tính trầm trọng của tội ác thực
sự ghê tởm và không thể tha thứ này, nhưng giúp để
hiểu được cường độ của cơn giận này. Bạo hành
tính dục đối trẻ vị thành niên, tôi nghĩ, là cột thu
lôi cho tất cả mọi nỗi kinh hoàng của chúng ta liên
quan đến sex và cách thức tách nó ra khỏi cái nhìn đạo
đức.
Ý
muốn của người thợ đồng hồ
Làm
sao chúng ta làm nhẹ bớt gánh nặng đè trên những người
khác và trên chính chúng ta ? Làm sao Đức Giê-su có thể
giảng dạy cách thức chia sẻ ách của ngài, dễ dàng để
mang cách nhẹ nhàng ? Nghe đây, chúng ta phải là người
tốt và có lòng đồng cảm với những người khác và
với chính chúng ta. Tôi chắc chắn rằng phần lớn đa số
các linh mục của giáo phận này là như thế. Cho dù
Herbert McCabe, một người anh em Ai-len, đã kể cho tôi rằng
một ngày nọ, khi giải tội ở Dublin, anh ta đã mắng hối
nhân kinh khủng ! Hối nhân này ra khỏi tòa giải tội,
làm việc đền tội, rồi chờ đến khi linh mục ra khỏi
tòa là xông đến mạt sát vị này còn dữ dội hơn nữa.
Nếu ai trong quý vị muốn xưng tội, thì tôi sẽ sẵn
sàng sau buổi thuyết trình này !
Tuy
nhiên chúng ta cần cái gì đó còn triệt để hơn lòng
tốt. Chúng ta cần đổi mới sự hiểu biết của chúng
ta về điều có nghĩa là mang lấy ách của Các Điều răn
của Chúa Giê-su. Chúng ta phải nghi vấn về ý tưởng
chung theo đó luân lý tính trên hết là việc cấm và bắt
buộc. Khái niệm theo đó là tốt lành trở về với việc
thuần phục theo ý muốn của Vị Đại Hiến Binh (Grand
Gendarme) trên trời đã bị vượt qua và sai lầm. Chắc
chắn khi trút trách nhiệm lên Guillaume d’Okham5,
nhưng còn xa với tôi như một tu sỹ Đa Minh ý tưởng về
việc nhạo báng anh em Phan Sinh ! Tôi cho rằng cái nhìn
luân lý chắc chắn này được áp đặt với thế kỷ của
Thời Khai Sáng và nền văn hóa kiểm duyệt của nó. Thế
kỷ của Ánh Sáng quan niệm thế giới và xã hội như một
cơ chế trước khi được kiểm soát, hoàn toàn như chiếc
đồng hồ. Và các luật lệ đạo đức phụ thuộc vào ý
muốn của người thợ làm đồng hồ. Tốt hệ tại ở
việc thuần phục ý muốn độc đoán của Chúa và Nhà
nước. Để biết được điều gì bạn có quyền làm và
điều gì bạn bị cấm.
Chúng
ta phải đỡ đần cho mỗi người, bao gồm cả chính
chúng ta nữa, khỏi gánh nặng nề này mà Vị Hiến Binh
trên trời làm đại diện. Lúc khởi đầu, dù là trong
dân Israel hay ở Giáo hội sơ khai, Mười Điều Răn không
được nhận thức như ý muốn tuyệt đối của Chúa. Nếu
chúng ta nhận thức được điều đó, thì một số trong
chúng ta đây sẽ kết nối với với vấn đề của
Bertrand Russell6,
theo đó Mười điều răn phải được xem như những câu
hỏi của một bài thi : không một thí sinh nào được vi
phạm hơn sáu điều trong đó ! Trong Thế Chiến II, có một
tu sỹ Đa Minh làm tuyên úy cho một trung đoàn quân Ba Lan.
Đêm trước cuộc tấn công núi Cassin, khi ra khỏi trại,
ngài thấy kinh hãi vì hàng ngàn binh sỹ đến xin xưng
tội. Làm sao có thể thực hiện ? Vào thời đó, giải
tội tập thể còn chưa được xem xét tới và hậu
nhiên là còn bị
cấm. Thế nên ngài mới mời tất cả các binh sĩ nằm úp
mặt xuống đất, theo cách mà người này không thể nhìn
thấy người kia. Rồi ngài nói : “Tôi sắp rảo qua danh
sách Mười Điều Răn. Những ai đã phạm vào một điều
răn nào thì giơ chân trái lên và chỉ cho biết bao nhiều
lần bằng chân phải tội đã phạm”.
Mùa
hè vừa qua tôi có một cuộc tranh luận hết sức thú vị
với vị Rabbi đáng kính của nước Anh, Jonathan Sachs. Ngài
đã dạy tôi rằng, trong sách Torah, không tồn tại từ mà
khi dịch ra tương đương động từ “vâng phục”, theo
nghĩa tuân phục ý muốn của ai đó theo một sự kiểm
soát từ bên ngoài. Khi Nhà nước Israel được thành lập
sau cuộc đại chiến thế giới, phải mượn đến một
thuật ngữ trong tiếng Aram để diễn dịch khái niệm
“vâng phục” trong sự chấp nhận hiện đại này. Trong
thực tế, từ trong tiếng Do thái mà chúng ta dịch cách
chung chung “vâng phục” có nghĩa “lắng nghe”. Mười
Điều Răn không phải là một sự băt buộc cưỡng bức
từ bên ngoài, nhưng luôn là một lời mời gọi cam kết
với một mối quan hệ riêng tư với Chúa. “Ta là Yahvé,
Chúa của ngươi, Người đã đưa ngươi ra khỏi Ai cập,
khỏi nhà nô lệ. Người không được có thần nào khác
ngoại trừ ta.” (Xh 20, 2-3). Những Điều răn dự phần
vào tình bằng hữu của Chúa và vào sự tự do. Chúng
được giao phó cho Moise, người mà Thiên Chúa đã nói
chuyện như là bạn bè.
Cũng
vậy với Chúa Giê-su. Chúa Giê-su mặc khải Điều Răn
mới của ngài cho các môn đệ vào đêm trước khi chết,
vào chính lúc đó ngài tuyên bố rằng họ là bạn hữu
của ngài. “Thầy gọi anh em là bạn hữu của thầy, vì
tất cả những gì thầy biết nơi Cha thầy, thầy đã cho
anh em hay” (Ga 15, 15)7.
Điều
này giải thích một điều thực sự bất ngờ liên quan
đến Đức Giê-su. Ngài ăn uống với các cô gái điếm
và những người thu thuế ; ngài có những người bạn ít
tin cậy. Ngài không chờ họ hoán cải để mời họ vào
bàn dùng bữa với mình. Ngài không nói : “Nghe này
Jeanne, một tuần nữa, con bỏ nghề đi, rồi con đến
mừng lễ với ta” ! Ngài đơn thuần chấp nhận họ như
họ đang là. Và tuy nhiên ngài rao truyền Bài giảng trên
Núi. Ngài ra lệnh cho các môn đệ đưa má ra, yêu thương
kẻ thù, không bao giờ được nổi giận, trở nên hoàn
hảo như Cha chúng ta ở trên trời. Ngài là người rất
đòi hỏi.
Làm
sao ngài có thể hòa giải hai phương diện này, tiếp đón
không e dè, khoan dung bên ngoài, và ít nhất quá đòi hỏi
? Những đòi hỏi này là đòi hỏi của tình bạn của
Chúa. Đó duy nhất trong khuôn khổ rất hữu hình của
tình bằng hữu mà chúng ta có thể trao ban một giáo huấn
luân lý.
Nên,
đặc tính này có những hệ quả triệt để trên cách
thức của Giáo hội giảng dạy một cái nhìn đạo đức.
Điều chúng ta phải nói chỉ có nghĩa trong khuôn khổ của
tình bằng hữu. Nếu quý vị muốn đề cập đến những
vấn đề này như phá thai, ly dị và tái hôn, hay đồng
tính luyến ái, thì chúng ta phải lưu ý đến những người
liên quan. Chúng ta phải chấp nhận sự tiếp đón của họ
và mời họ vào trong nhà của chúng ta. Khi tôi còn là
sinh viên ở Paris, hồng y Daniélou chết trong thang máy, khi
ngài đi thăm một cô gái điếm. Báo chí nói bóng gió với
vẻ nghi ngờ. Nhưng tất cả những ai biết hồng y đều
biết rằng phải nói đến một con người thánh thiện đã
thực hiện nhiệm vụ của mình là đồng hành tinh thần
nơi những người bị khinh chê, như ngài đã luôn làm
điều đó. Ngài đã ban tặng tình bạn cho những người
không được yêu thương.
Ách
của Đức Giê-su thì dễ dàng mang vác và nhẹ nhàng vì
nói đến sự ban tặng tình bằng hữu của ngài, và ngài
chỉ có thể được chuyển đổi trong tình bằng hữu.
Thực tế, điều phải được nói chỉ có thể được
hiểu trong tình bạn. Chỉ duy nhất bên cạnh nhau, khi chia
sẻ cuộc đấu tranh và cuộc điều tra, mà chúng ta đón
nhận lời thích hợp nhất. Và lời này sẽ không bao giờ
là gánh nặng nhưng là ân sủng.
Thông
điệp này sẽ cực kỳ khó khăn để chuyển cho giới
truyền thông. Họ thích những tuyên bố hay, đẹp và
trong sáng, những tham chiếu là những vấn đề về cấm
đoán. Nhưng phải nói rằng báo chí là sản phẩm thuần
túy của tinh thần Ánh Sáng và văn hóa kiểm duyệt của
nó. Điều này dẫn chúng ta đến một cách thức khác qua
đó Đức Giê-su dạy chúng ta nghỉ ngơi và được bình
an.
Tình
bạn với Đức Giê-su, sự thân mật, nghĩa là học dịu
dàng và khiêm nhường trong lòng. Nên, chúng ta sẽ tìm
thấy sự nghỉ ngơi cho tâm hồn chúng ta. Nhưng tôi không
chắc rằng khi ta nghĩ đến Giáo Hội công giáo, lời đầu
tiên xuất hiện trong đầu là từ “khiêm nhường”.
Thực vậy, tôi không tin rằng thuật ngữ này là đặc
tính của mỗi giáo hội trong các Giáo hội mà tôi biết.
Một ngày nọ, tôi tham dự vào một cuộc họp đại kết
ở Bari và một vị tổng giám mục của một giáo hội
khác đến gần tôi, ăn mặc lộng lẫy. Ngài hỏi tôi
phải xưng hô thế nào đây : Quý cha nguyên BTTQ ? Quý cha
đáng kính ? Quý Cha Timothy ? Trong lúc tinh nghịch, tôi trả
lời rằng nếu ta muốn một cách rất chính thức, người
ta có thể gọi tôi là “anh”. Rồi, ngài hỏi tôi đâu
là biểu tượng của quyền lực của tôi với tư cách là
Bề trên cả của Dòng. Phải chăng tôi đang giữ một hòm
bí mật ? Một cây gậy như gậy giám mục ? Khi tôi trả
lời rằng tôi chẳng có gì hết, thì vị giám mục kia bỏ
đi và nói rằng, dĩ nhiên, tôi không xứng đáng để
người ta nói với tôi những lời ấy.
Tôi
cho rằng cơn khủng hoảng về tính dục này liên hệ chặt
chẽ với vấn đề quyền lực và cách thức mà quyền
lực này vận hành trong lòng Giáo hội ở mọi cấp độ,
từ Vatican đến phòng thánh giáo xứ. Đừng nói đến
quyền hành của Đức Giê-su, người luôn dịu dàng và
khiêm nhường trong lòng. Tất cả những cơ chế của con
người được tập trung trên cách dùng quyền. Thực sự
tôi tin rằng với nền văn hóa kiểm duyệt có nguồn gốc
từ thời Ánh Sáng, sự tuân thủ quyền lực bị hiểu
sai. Charles Taylor, trong tác phẩm đáng chú ý A
Secular Age8,
lật lại sự phát triển của những yêu sách đối với
quyền lực luôn ngày càng vươn rộng hơn. Chúng tôi thấy
điều này thông qua sự lên ngôi của các vua trong chế độ
quân chủ ở nước Anh, Pháp và Tây Ban Nha, và sự phát
triển của Nhà Nước trung ương tập quyền. Những người
nghèo dừng lại để được nhận dạng như anh chị em
của chúng ta trong Đức Ki-tô và trở nên một mối đe
dọa. Họ phải bị giam giữ, như những bệnh nhân tâm
thần. Chúng ta thực hiện quân đội chuyên nghiệp và
những dịch vụ cảnh sát (service de police), và có một sự
bùng nổ thực sự của sự lập pháp này.
Giáo
hội, than ôi, thường bị chính nền văn hóa kiểm soát
đạt đến. Tôi nhớ đến vị giám mục đã tuyên bố :
“Chúng ta hoàn toàn bình đẳng trong giáo phận này, từ
tôi cho đến người khiêm nhường nhất”. Và một người
khác, nhân lễ tấn phong của người ấy, đã hứa phục
vụ giáo phận với bàn tay sắt !
Tôi
nghi ngờ rằng tất cả điều này phải liên quan đến
việc Giáo hội, trong suốt hàng thế kỷ, phải đấu
tranh chống lại các quyền lực của trần thế luôn tìm
cách chiếm lấy nó. Từ Đế quốc La Mã cho đến các chế
độ toàn trị, qua Đế quốc Anh, các đế quốc khác,
Giáo hội luôn phải đấu tranh nhằm bảo vệ và duy trì
sự làm chủ đời sống của chính mình, và thường kết
thúc bằng việc thấm đẫm bởi chính nền văn hóa quyền
lực này. Nên, chính nền văn hóa quyền lực ngự trị
lúc khởi đầu của cơn khủng hoảng của các vụ lạm
dụng tính dục, mà chúng đại diện cho sự lạm dụng
quyền lực trên những người bé nhỏ và những người
dễ bị tổn thương.
Chúng
ta sẽ không có một Giáo hội vô hại cho giới trẻ như
chúng ta học được từ Đức Ki-tô và chúng ta không trở
nên một giáo hội khiêm hạ, trong đó chúng ta đều là
con cái bình đẳng trước một Cha duy nhất. Đức Ki-tô
sẽ cho chúng ta chỗ nghỉ ngơi cho tâm hồn chúng ta.
Trong
Giờ kinh sách, tuần thứ nhất mùa Vọng, có một bài đọc
tuyệt vời trích từ Sách Ngôn sứ Isaia. Bài đọc gợi
hứng từ kinh nghiệm khủng hoảng và sự nhục nhã mà
dân Chúa phải trải qua. Nhưng, đối với Isaia, kinh nghiệm
này là lời hứa rằng họ lại chia sẻ chính sự sống
của Chúa và bình an của Ngài ; “Vâng, đó sẽ là ngày
của Đức Chúa đã giành sẵn để trị tất cả những
gì kiêu căng ngạo nghễ, tất cả những gì tự cao tự
đại : chúng sẽ bị hạ xuống, trị mọi cây hương bá
Li-băng ngạo nghễ vươn cao, và mọi cây sồi xứ Ba-san,
mọi quả núi ngạo nghễ, và mọi ngọn đồi vươn cao,
mọi cây tháp cao vời và mọi tường lũy kiên cố.” (Is
2, 12-15). “trên khắp nui Si-on và tren những người hội
họp ở đó, Đức Chúa sẽ tạo ra một đám mây ban ngày,
một đám khói và ngọn lửa rực sáng ban đêm. Thật vậy,
trên tất cả, vinh quang vinh quang của Chúa sẽ là tán
che, là mái lều làm bóng râm ban ngày cho khỏi nóng, làm
nơi nương ẩn khi bão táp mưa sa.” (Is 4, 5-6)
Một
cơn khủng hoảng hiểu biết về hàng linh mục
Phải
nói đến một cơn khủng hoảng khủng khiếp cho Giáo hội
nhưng nó mang trên đó một lời hứa và những ân huệ,
với điều kiện phải chấp nhận nó. Cơn khủng hoảng
này vượt quá bên kia cơn khủng hoảng gây ra bởi những
vụ lạm dụng tính dục đối với những trẻ vị thành
niên của các linh mục và tu sỹ. Chính sự hiểu biết về
hàng linh mục và về đời sống tu trì đang khủng hoảng.
Cuộc Cải Cách đã là lời đáp trả cho cơn khủng hoảng
xảy ra vào cuối thời Trung Cổ. Hình thức của hàng linh
mục của chúng ta hoàn toàn bất khả để đối diện với
một thế giới mới. Các giáo sỹ thực tế không được
đào tạo đến nơi, chỉ có khả năng làm lễ và thường
sống vợ chồng lén lút với phụ nữ. Chính các tu sỹ
lại còn mờ ám hơn nữa. Một tục ngữ Tây Ban Nha khẳng
định : “Đừng bao giờ giao túi tiền cho một tu sỹ
dòng Tên. Và đừng bao giờ giao vợ cho thầy tu”. Nói
khác đi, quý vị có thể để lại cho tôi túi tiền của
quý vị với trọn niềm tin !
Cơn
khủng hoảng này đã kéo theo một sự đổi mới kỳ diệu
hàng linh mục, mà nó đi kèm với một linh đạo mới, các
chủng viện mới, sự đào tạo thần học sâu sắc hơn,
với những môn học mới. Nhưng sự đổi mới này thường
cho thấy ấn tượng rằng chúng ta là những hoạn quan, là
những sinh vật phi giới tính. Trẻ con sẽ tự hỏi rằng
các nữ tu có cặp chân dài dưới tà áo dòng lòng thòng
hay các sơ có thể di chuyển bằng pa-tanh không. Một ngày
nọ, tôi giảng ở ngoài trời. Đang ứng khẩu trên bục
giảng, tôi nghe thấy một em nhỏ nói với mẹ : “Mẹ
ơi, tại sao ông ấy mặc váy ?”. Điều này đã làm vui
nhộn cử tọa của tôi. Rồi một bản tay nhỏ vén phần
dưới áo dòng của tôi : “Tốt rồi, mẹ ơi. Ông ta có
mặc quần ở trong.”
Chúng
ta sống cơn khủng hoảng hiểu biết về hàng linh mục,
vì một thái độ xa cách với dân chúng, về sự sử dụng
quyền lực và về sự áp dụng luân lý trong khuôn khổ
kiểm soát. Cách đau đớn, Thiên Chúa phá bỏ những tòa
tháp kiêu kỳ của chúng ta và sự tự phụ của chúng ta
trước vinh quang và sự cao cả đối để có thể xây
dựng ngôi nhà của ngài với chúng ta.
Phần
lớn đa số các linh mục và các giám mục mà tôi gặp
trên khắp thế giới là những con người khiêm nhường
không tự phụ, những người chỉ mong ước được phục
vụ Dân Chúa. Phần lớn các linh mục mà tôi biết mong
ước được chia sẻ cuộc đời họ với các tín hữu và
luôn sẵn sàng cho họ. Từ khi tôi bắt đầu du hành trong
lòng Giáo hội, tôi cảm hóa sâu sắc điều này. Và tôi
có cùng ấn tượng này khi gặp gỡ các linh mục của
giáo phần này trong tuần tĩnh tâm này. Quý vị có thể
rất tự hào về lòng khiêm nhường của quý vị. Và,
thường, lòng khiêm nhường này còn ấn tượng hơn cả
việc thách thức các cấu trúc và các truyền thống mà
chúng phải đưa chúng ta lên những đỉnh cao và nâng
chúng ta lên những tầm cao, với những danh hiệu quý giá,
những trang phục kỳ diệu. Cơn khủng hoảng này hình như
là khởi đầu của một cuộc đổi mới tuyệt vời của
Giáo hội, qua đó chúng ta thực sự học được từ Đức
Giê-su, “vì ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng, và
các người sẽ tìm thấy nơi an nghỉ”.
Các
linh mục quá hành động
Lời
cuối cùng tôi xin đề cập đến với quý vị là từ
“nghỉ ngơi”. Đức Giê-su nói với các môn đệ khi họ
kiệt sức : “Hãy đi vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi đôi
chút”. Tôi hy vọng rằng thời gian trải qua với nhau ở
đây sẽ là cho quý vị nghỉ ngơi và để cho quý vị
chống lại cơn cám dỗ phải kiểm tra thư điện tử mỗi
mười giây và chạy lăng xăng khắp nơi với chiếc điện
thoại di động.
Chúng
ta không thể trao ban lời hứa nghỉ ngơi của Đức Ki-tô
nếu chính chúng ta không nhận ra chính mình như những cá
nhân đôi khi phải biết đến tình trạng này. Các linh
mục, dù sao, cũng thường quá hành động, nhưng cơn khủng
hoảng hiện tại có nguy cơ làm trầm trọng thêm khuynh
hướng này. Chúng ta hình như có cảm giác phải chứng tỏ
rằng chúng ta là những linh mục đặc biệt tốt, nhằm
phục vụ không ngừng những tín hữu của chúng ta, mà
không giành riêng cho mình một giây phút nào. Phải nói
đến ơn cứu độ bằng công việc, chứ không phải bằng
ân sủng.
Thomas
Merton đánh giá rằng quá năng động dẫn đến kết hợp
với bao lực trong xã hội chúng ta : “Sự hối hả và
những áp lực của cuộc sống hiện đại dưới một
hình thức, có thể phổ biến nhất, của bạo lực nội
tại của chính cuộc sống đó. Chúng ta để cho bị cuốn
đi bởi nhiều mối bận tậm mâu thuẫn nhau, ngã ngục
bởi quá nhiều lời xin xỏ, dính dáng đến quá nhiều dự
án, muốn giúp đỡ tất cả mọi người rối tất cả
những điều này quay trở lại đánh đổ với sự mãnh
liệt. Còn tệ hơn nữa, phải nói đến sự hợp tác với
bạo lực. Sự mãnh liệt của kẻ hoạt động là bão hòa
khả năng riêng đạt đến sự bình an trong đời sống
nội tâm. Nó phá hủy tính hiệu quả của công việc
riêng của nó bởi vì nó giết chết đi những gốc rễ
của sự không ngoan bên trong đem lại hiệu quả cho công
việc”9
Nếu
tính năng động đem lại bạo lực, thì điều này giải
thích cách này hay cách khác. Chúng ta nhận ra rằng chúng
ta dùng những hình thức bạo lực riêng. Chúng ta dùng bạo
lực cho chính chúng ta thông qua rượu hay ma túy. Chúng ta
có nguy cơ trở nên bạo lực trên bình diện tình dục,
đặc biệt với những con người dễ bị tổn thương.
Chúng
ta cần, mà không phải xấu hổ, tìm được sự an nghỉ
trong Chúa. Đoạn này rút ra từ tin mừng theo thánh
Mát-thêu gợi lên một số cách thức mà chúng ta có thể
tiến hành.
Chúng
ta tìm thấy sự nghỉ ngơi vì cơn khủng hoàng này có thể
xác nhận có kết quả. Thời điểm của những lợi ích
mới và một sự đổi mới của Giáo hội hình như đã
đến. chúng ta có thể bình thản đối diện với nó, vì
chiến thắng đã tới. Đức Ki-tô đã chết, Đức Ki-tô
đã phục sinh, Đức Ki-tô sẽ trở lại. như Dietrich
Bonhoeffer10
đã truyên bố điều này với người bạn của ông, giám
mục giáo phận Chichester, Goerge Bell, trước khi bị Đức
quốc xã hành hình : “Chiến thắng của chúng ta là chác
chắn.”
Chúng
ta có thể tìm thấy sự an nghỉ vì chúng ta không phải
tự phụ, trái với những linh mục xấu xa, rằng chúng ta
tốt kinh khủng. chúng ta có thể để cho rơi gánh nặng
nề của chiếc mặt nạ đạo đức và chúng ta đến tị
nạn trong cánh tay áo của Chúa.
Chúng
ta có thể tìm thấy sự an nghỉ vì ách của Đức Giê-su
thì nhẹ nhàng. Những Điều Răn của ngài là lời mời
gọi đến với tình bằng hữu. và tình bằng hữu đơi
khi được đòi hỏi, nhưng nó không bao giờ là gánh nặng.
Và
chúng ta cũng có thể bỏ rơi gánh nặng này mà nó hệ
tại ở việc là những cá thể quan trong và mạnh mẽ.
2
Dịch theo bản tiếng pháp của Christine Bouard-Schwartz trên
Documentation
Catholique 2010, no
2443, tr. 325 – 331. Tựa và các đề mục do DC
đặt.
4
“Une vision de jugement dernier” trong Effrois
et fantasmagories, H.
G. Wells, dịch sang tiếng Pháp bởi Henry-D. Davray và B.
Kozakiewicz, Mercure de France, 1911.
5
Guillaume d’Okham (khoảng 1285-9 tháng tư 1347), tu sỹ dòng
Phan Sinh, triết gia, nhà logic học và thần học gia người
Anh.
6
Nhà toán học và triết gia người Anh (1872 – 1970). Về
điểm này, xem bài báo của T. Radcliffe, “Quelle
forme pour l’Église de demain ?
– Hình thức nào cho Giáo hội ngày mai ?”,
đăng trên DC 2009, n. 2432, tr. 933-937.
7
T. Radcliffe, Je vous
appelle amis,
entretiens avec Guillaume Goubert, La Croix/ Le Cerf, 2000. Xem DC
2009, n. 2428, tr. 746.
10
Dietrich Bonhoeffer (1906 – 1945) là mục sư tin lành giáo
hội Luther, thần học gia chống lại chủ nghĩa phát xít.