dimanche 12 avril 2015

vì niềm vui đã được đặt ở phía trước


Bài thuyết trình của cha Timothy Radcliffe, o.p., tại Hội Nghị Các Linh Mục Toàn Quốc ở trường Trung Học Digby Stuart, Roehampton, Anh Quốc, 27.9.2002

Hôm qua tôi đã trình bày với anh em rằng có một sự mâu thuẫn nội tại giữa một bên là làm một người linh mục và một nhà giảng thuyết với một bên là cứ phải sống trong một tình trạng chán nản dai dẳng. Chúng ta không thể nào là những người giảng thuyết Tin Mừng có sức thuyết phục, nếu như chúng ta cứ phải ngụp lặn năm này qua năm khác trong ưu sầu chán nản. Niềm vui là một phần trong ơn gọi của chúng ta, vì niềm vui là trọng yếu đối với ơn gọi làm người. Thôi thì thản hoặc chúng ta có thể thấy mình buồn phiền hoặc thậm chí nóng giận, nhưng sự chán nản lại đe dọa chính cuộc đời của chúng ta. Hôm qua, tôi đã lược qua đôi chút về đời sống tâm linh của linh mục, coi đó như là một lối sống chan hoà với cộng đoàn địa phương của mình. Tôi cũng đã nêu lên một số vấn đề thực sự có thể làm cho linh mục cảm thấy xuống tinh thần : những khó khăn trong việc lãnh đạo, tính chất mong manh của cộng đoàn giáo xứ, và sự kiện ngày này qua ngày khác cứ phải liên luỵ, cứ phải dính dáng vào biết bao thất bại và đau thương. Vậy chúng ta làm thế nào để có thể vẫn vui khi đối diện với tất cả những chuyện như thế ?
Hôm nay, tôi xin được lướt qua một loạt những vấn đề khác. Có thể đời sống của người linh mục tập trung vào cộng đoàn địa phương của mình, nhưng linh mục ấy cũng lại là người đại diện cho Hội Thánh phổ quát trước mặt cộng đoàn địa phương ấy nữa. Chính điểm này sẽ đưa tới những thách đố riêng và những động cơ tiềm tàng dẫn tới tâm trạng chán nản. Người linh mục có thể trình bày giáo huấn của Hội Thánh như thế nào nếu như giáo huấn ấy ra như xa vời đối với những kinh nghiệm của giáo dân mình ? Người linh mục có thể là đại diện trung thành cho Hội Thánh như thế nào nếu như chính bản thân người linh mục lại cảm thấy không thoải mái đối với một số những tuyên ngôn của Huấn Quyền ? Người linh mục có thể đứng trước Dân Thiên Chúa với lòng tin tưởng và niềm vui như thế nào khi chính mình lại biết rằng mọi người đều đã biết những lời tố cáo chống lại Hội Thánh qua các phương tiện truyền thông ? Tôi xin trình bày vắn tắt những vấn đề này, theo thứ tự khó khăn từ ít đến nhiều, và rồi xem chúng ta phải đối diện với những vấn đề trên thế nào mà lòng vẫn giữ được niềm vui. Xin cầu cho tôi biết trình bày cho ra !

Giữa “tảng đá và chốn khô cằn”

Một nguyên nhân gây đau thương và thậm chí chán nản đối với các linh mục, đó là khi thấy mình ở giữa một bên là cộng đoàn địa phương với một bên là Hội Thánh phổ quát. Phần lớn các linh mục rất chan hòa với cộng đoàn địa phương của mình. Chúng ta khám phá ra ý nghĩa chức linh mục của mình khi chia sẻ cuộc đời với những con người cụ thể ấy. Chúng ta chia sẻ những chiến đấu của họ, vui mừng khi họ chiến thắng, ở bên cạnh họ khi họ thất bại, và chúng ta được dưỡng nuôi nhờ đức tin của họ. Nhưng linh mục cũng còn là những người đại diện cho Hội Thánh phổ quát. Khi chúng ta giảng thuyết, chúng ta không được chỉ dán mắt vào những mảng riêng biệt nào mình ưa mình thích để truyền bá quan điểm của mình. Chúng ta được mời gọi để công bố Tin Mừng và giáo huấn của Hội Thánh. Thế nhưng, chúng ta có thể thấy ngay là nhiều điều chúng ta phải giảng dạy lại ra như xa vời, không thể hiểu được và lại còn không thực tế đối với kinh nghiệm của giáo dân chúng ta. Lắm khi những người giáo dân nghe với cặp mắt đờ đẫn.
Rõ nhất là trường hợp liên can đến giáo huấn về luân lý và đặc biệt là về tính dục. Giáo huấn của Hội Thánh về luân lý tính dục vốn kiên quyết và minh bạch. Cái khó là, ở một vài nơi nếu không muốn nói là ở hầu hết các nơi, nhiều tín hữu chúng ta đang sống với họ hoặc không chấp nhận giáo huấn này, hoặc giả có thì lại thấy rằng khó hay thậm chí không thể sống được như vậy. Ở một số nơi trong xã hội của chúng ta, hoặc ở nhiều nơi khác trên thế giới, hầu hết người dân không sống đời sống tính dục trong khung cảnh đời sống hôn nhân, nghĩa là một đời sống mở ra đón nhận con cái. Hầu hết những người trẻ tôi quen biết đều hoặc là đang sống với người tình của mình, sử dụng các phương pháp tránh thai, hoặc ly dị, tái kết hôn hay đồng tính luyến ái. Thế thì có thể làm cách nào để sống đời linh mục của chúng ta hài hòa với những con người như thế, đồng thời cũng xây dựng cộng đoàn, một khi chúng ta được coi như những người đại diện công khai cho một quan điểm luân lý mà phần lớn người ta hoặc là không chấp nhận hoặc cảm thấy không thể sống được ? Về điểm này, tôi không có ý nói đến chân lý trong giáo huấn này của Hội Thánh, mà chỉ nhắm đến tính cách không thể hiểu được đối với hầu hết dân chúng. Có thể chúng ta yêu mến giáo huấn luân lý của Hội Thánh và xác tín sâu xa nữa là đàng khác, nhưng chúng ta vẫn cảm thấy nản vì nhận thấy có một hố ngăn cách quá lớn giữa quan điểm luân lý chúng ta được mời gọi công bố với cuộc sống hiện thời của những người chúng ta đang sống với họ và sống cho họ. Nào, chúng ta đối diện với vấn nạn này. Thực mà nói, hầu hết chúng ta, nếu chúng ta ở vào hoàn cảnh của họ, có lẽ chúng ta cũng thấy mình đang ở trong cùng một tình trạng như họ hiện đang gặp. Tôi chắc chắn rằng tôi cũng như thế thôi !
Nỗi khổ trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan này một phần là vì nó đi ngược lại với ý tưởng về chức linh mục chúng ta khai triển ngày hôm qua. Chức linh mục của Đức Kitô đã được trình bày như là vòng tay ôm ấp những con người đang ở bên lề, những người đang ở trong tình trạng ô uế, những kẻ tội lỗi, những người lang thang phiêu bạt, những người yếu đuối và những kẻ lạc loài. Cử hành Thánh Thể và nhìn thấy quá nhiều những con người bị loại trừ như thế không phải chỉ là đau đớn sâu xa mà thôi. Chuyện đó còn ra như đi ngược với vòng tay rộng lớn muốn ôm trọn lấy cái kiếp nhân sinh loay hoay đổ đốn này, tức là chính ý nghĩa của Thánh Thể. Tất nhiên, về vấn đề này, “giải pháp mục vụ” là nháy mắt, là thúc cùi chỏ cũng xong. Nhưng khi nhìn vào vấn đề này để tìm một lối ra, hay đúng hơn là lối vào, cho biết bao nhiêu những con người như thế, tức thị ta lại thoáng thấy thất vọng và sợ hãi khi phải đối diện với vấn đề.
Một số nhà thần học luân lý bảo rằng, cái hố ngăn cách giữa giáo huấn của Hội Thánh với kinh nghiệm trong đời thường của dân chúng càng lúc càng sâu hơn kể từ thời Công Đồng Trentô. Ở thời Trung Cổ, thần học luân lý được coi như một sự khôn ngoan thực tiễn, không thể tách ra khỏi những kinh nghiệm sống. Sau thời Cải Cách, vì muốn cho rõ ràng và chắc chắn, thế là vấn đề lại thành ra trừu tượng và có tính cách diễn dịch nhiều hơn. Nó khởi đi từ những nguyên tắc tổng quát để đi tới những kết luận tổng quát, mà không hề để ý xem những người nam người nữ đang sống hiện nay như thế nào cho lắm. Theo vị thánh quê ở Aquinô, Luật Tự Nhiên là điều chúng ta phải khám phá không phải chỉ trong mạc khải mà thôi, nhưng còn qua kinh nghiệm nữa. Sau Công Đồng Trentô, Luật Tự Nhiên được trình bày một cách trừu tượng hơn và hiển minh hơn. Thế nhưng cái thành quả xa hơn này lại mở rộng thêm cái hố ngăn cách giữa quan điểm với thực tế. Người ta hay đổ lỗi sự việc này khi cho rằng sở dĩ như thế là do thần học luân lý của Dòng Tên chiếm ưu thắng. Nhưng tôi, một tu sĩ Đa Minh chính cống, tôi không hề đổ lỗi cho các anh em Dòng Tên, những người bạn hữu của chúng tôi !
Vậy, chúng ta có thể sống như thế nào trong cái khoảng không gian giữa quan điểm luân lý với những gì con người hiện nay đang sống mà không nản lòng nhưng thậm chí còn tràn đầy niềm vui ? Cha Tony Philpot kể lại là cách đây nhiều năm, ông đi dự cuộc nói chuyện của Đức hồng y Ratzinger tại Cambridge. Đó là một bài thuyết trình sâu sắc tuyệt vời về những nguyên tắc luân lý tổng quát. Nhưng đến khi Tony về lại giáo xứ mình, về lại nơi ăn chốn ở của những con người đang ngày đêm bon chen để sống còn, thì ở đấy những gì Đức hồng y đã nói chẳng có một tí ý nghĩa nào cả. Tony mô tả tình trạng này như là đang phải sống trong cái khoảng không gian giữa cái tổng quát với cái đặc thù, như là đang phải đong đưa giữa cái trừu tượng và cái cụ thể. Và đấy chính là nơi người linh mục được mời gọi tới để hiện diện. "Quả là … không thú vị khi phải ở vào cái khoảng không gian giữa cái tổng quát với cái đặc thù, giữa tảng đá và chốn khô khan cằn cỗi. Đúng là chẳng thú vị khi phải thuộc về cái thế giới chính thống, nhưng lại phải mất quá nhiều thời giờ và sức lực của mình với những người không chính thống, và thực ra là thuộc về cả cái thế giới của họ nữa. Tôi xin nói với những người đang chuẩn bị lãnh tác vụ linh mục giáo phận biết rằng cái tâm hồn bị phân chia như thế chính là nỗi đau đặc trưng trong ơn gọi của chúng ta, và nếu như chúng mình cảm nghiệm được nỗi đau này, tức thị đó là dấu cho thấy chúng mình sẽ là những người linh mục tử tế”2.
Bước thứ nhất và là bước đúng, đó là biết rằng linh mục chúng ta là những người thuộc về một chỗ như thế. Vị trí ở giữa tảng đá và nơi khô cằn này là vị trí chúng ta đang sống ơn gọi của chúng ta. Tôi xin nêu lên bước thứ hai. Trung tâm đức tin của chúng ta chính là Lời đã trở thành xác phàm. Lời không bao giờ lại cứ ở trong tình trạng trừu tượng, tổng quát và xa vời. Lời của Tin Mừng vẫn cứ là đang đi tới một cuộc sinh ra mới, một cuộc chào đời mới, cho dù là ở Anh Quốc, Brazil hay Rôma đi chăng nữa. Là những nhà giảng thuyết, chúng ta đừng bao giờ chỉ trao đi lời trừu tượng. Chúng ta vẫn đang tìm cách đưa Lời của Tin Mừng đến chỗ sinh ra, đến chỗ chào đời, ngay bây giờ, trong cộng đoàn chúng ta đang sống này, qua ngôn ngữ riêng, trong những cơ cấu xã hội riêng, trong những thành công và thất bại, trong sự giàu sang thịnh vượng và nghèo khó riêng. Nhà giảng thuyết chính là bà đỡ trong tiến trình này. Nhà giảng thuyết lắng nghe Tin Mừng và giáo huấn của Hội Thánh, lắng nghe ngay từ bên trong nền văn hóa của riêng dân tộc mình, để xem Lời Thiên Chúa đang ra đời ở đây và lúc này, tươi xinh như một em bé, với nét mới mẻ vĩnh hằng của Thiên Chúa như thế nào.
Vì thế, sự chia cắt giữa giáo huấn của Hội Thánh với kinh nghiệm của những người đang sống với chúng ta đúng là một chuyện đau thương. Chính đây là nơi chúng ta được mời gọi đến hiện diện, với một tâm hồn bị phân chia, theo như cách nói của anh Tony. Nhưng chúng ta cứ phải ở lại đây để cho Lời mới được chào đời, sao cho bi kịch Nhập Thể lại có thể diễn ra một lần nữa trong chúng ta và qua chúng ta. Để được như vậy, chúng ta phải sống hài hoà thực sự với những người đang cảm thấy mình bị loại ra khỏi Hội Thánh do những hoàn cảnh “bất qui tắc” của họ chẳng hạn. Chúng ta phải đặt mình vào hoàn cảnh của họ – nếu như trước đây chúng ta đã không có mặt ở đó – để nghe bằng đôi tai của họ, để nhìn với cặp mắt của họ, để cảm thấy bằng làn da thớ thịt của họ, và theo nghĩa nào đó, để là chính họ nữa. Và rồi cùng với họ khám phá ra điều cần phải được nói lên. Thiên Chúa đã trở thành con người, chúng ta cũng phải như vậy. Sống trong sự chia cắt này, nghĩa là giữa cái trừu tượng với cái đặc thù, là đau thương thật, nhưng đó có thể lại là cơn đau đẻ. Và, như chúng ta ai cũng biết, sau cơn đau đẻ là niềm vui. “Khi sinh con, người đàn bà lo buồn vì giờ của mình đã đến ; nhưng khi sinh em bé rồi, thì bà không còn nhớ đến cơn gian nan nữa, bởi niềm vui vì có một con người đã sinh ra trong thế gian (Ga 16,21).
Muốn kiên trì đứng thẳng làm cây thông mà lại sinh sản, chúng ta cần nhiều thứ. Một trong những thứ chúng ta cần nhất, đó là cần có nhau, cần sự nâng đỡ của các anh em linh mục bạn hữu của chúng ta. Chúng ta bị kẹt giữa hai cảm thức mạnh mẽ của việc chúng ta thuộc về ai này. Chúng ta thuộc về anh chị em của chúng ta, và còn là một với họ nữa. Nhưng chúng ta cũng lại thuộc về Hội Thánh phổ quát và còn là đại diện cho Hội Thánh phổ quát nữa. Trong tình thế căng thẳng này, chúng ta có thể được nâng đỡ nhờ một cảm thức mạnh mẽ là chúng ta thuộc về và với nhau. Có thể ví linh mục đoàn như thể một Liên Hiệp Các Bà Đỡ trong Hội Thánh ! Thường chúng ta hay bị rơi vào cái cảm thức cá nhân chủ nghĩa hơi cao về chức linh mục. “Ấy, mình là chánh xứ ở cái giáo xứ này đấy nhá. Mình cai quản giáo xứ này. Mình không muốn bất cứ ai xía vào cả, dù đó là các cha ở các giáo xứ lân cận, dù là Đức giám mục giáo phận, mà cả Rôma nữa”. Tất nhiên, linh mục giáo phận là phải mạnh đủ thì mới có thể đối phó nổi với trăm công ngàn chuyện. Phải là một đấng nam nhi không biết hãi sợ cô đơn. Tôi không biết nếu tôi ở vào hoàn cảnh như thế, tôi có đối phó nổi không. Tôi cần có một cộng đoàn, hoặc giá như không có cộng đoàn, thì tôi cũng đã phải lập gia đình từ lâu lắm rồi ! Tuy nhiên, sự cô độc như thế không được tôn lên hay để biện minh cho một thứ cá nhân chủ nghĩa sâu xa, một nỗi cô đơn bất khả đụng chạm, một thứ người hùng, một thứ nam nhi chí khí đầy tự mãn được. Chúng ta cần nhau. Tình huynh đệ của chúng ta với các linh mục bạn hữu của chúng ta là một phần thâm sâu trong những gì chúng ta là, và chính mối tương quan này nâng đỡ chúng ta trong cái cảm thức thuộc về hai bên vừa nói, tức là vừa thuộc về cộng đoàn địa phương lại vừa thuộc về Hội Thánh phổ quát. Tông huấn Pastores dabo vobis đã nói : “Thừa tác vụ theo chức thánh có ‘dạng thức cộng đoàn’ rất sâu xa, và chỉ có thể thực hiện được như là một ‘công việc tập thể’”. Ngày xưa, khi một em bé săp chào đời, mọi người phụ nữ trong làng quây quần chung quanh giường để phụ giúp công việc sinh nở. Đấy, chúng ta cũng cần sự nâng đỡ của nhau trong việc làm cho Lời Thiên Chúa được nhập thể ở đây và lúc này.
Điều vừa nói trên cũng hàm ý phải đón nhận Đức giám mục như là người anh em của chúng ta vậy. Trong Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis (về chức vụ và đời sống linh mục) có viết rằng : Đức giám mục phải coi các linh mục trong giáo phận của mình là những người anh em và những người bạn hữu. Cha Tony Philpot còn nhấn mạnh rằng : nếu chúng ta phải có một mối tương quan huynh đệ đích thực với Đức giám mục của mình, thì điều ấy không chỉ hàm ý rằng người phải đối xử với chúng ta như là những người anh em mà thôi, nhưng chúng ta cũng phải xử sự với người như là với một người anh em nữa. Một số linh mục không muốn coi Đức giám mục như là một người bạn hữu hoặc một người anh em. Vì như thế là gần gũi quá. Một số muốn làm giám mục, còn một số khác lại muốn tránh giám mục. Một số muốn Đức giám mục phải là một người cha có khả năng giải quyết những khó khăn của mình và để giải trách nhiệm cho mình, rồi cũng là người để mình có thể trách cứ, có thể đổ lỗi khi có điều gì trục trặc xảy ra. Cha Tony còn viết : “Nếu Công Đồng Vaticanô II nói Đức giám mục phải xử sự với các linh mục như là những người anh em và những người bạn hữu, thì các linh mục cũng phải đi vào cung cách xử sự như thế. Một phần của việc coi người khác như những người anh em và những người bạn hữu của mình, đó là bạn cũng phải đón nhận những giới hạn của chính con người họ, và việc đón nhận những lỗi lầm và sự hoà giải là điều có thể. Con đường hai chiều là đây”3. Đây chính là nơi chúng ta phải học cho biết thế nào là lãnh đạo như tôi đã gợi ý hôm qua, bằng cách trở thành người đi bước trước. Sự kiện Đức giám mục không tới với chúng ta, chưa ra như là những người anh em và những người bạn hữu, không miễn cho chúng ta khỏi phải xử sự với người như thế. Chính chúng ta cũng phải thi hành việc lãnh đạo, vươn tới Đức giám mục, dám đi bước trước để cống hiến tình huynh đệ.

Sống trong chân lý

Tôi đã nói qua làm thế nào chúng ta có thể đối phó với nỗi vất vả khi phải sống trong cái hố ngăn cách không thể tránh được giữa giáo huấn của Hội Thánh với kinh nghiệm người giáo dân đang sống, giữa cái trừu tượng với cái đặc thù. Tôi cũng đã xin thưa rằng chính cái khoảng không gian ấy có thể lại là nơi để Lời sinh ra đời, cho nên nỗi đau thương vất vả lại có thể trở thành niềm vui. Điều đó sẽ trở thành khó khăn hơn, nếu chúng ta đi tới chỗ hồ nghi tính cách thích hợp, tính cách khéo léo hoặc thậm chí cả chân lý nơi một số tuyên bố của Hội Thánh. Đây là một đau thương kinh khủng mà rất nhiều người – giáo dân, linh mục và giám mục – đã phải chịu khi thông điệp Humanae vitae (Sự sống con người) được công bố. Điều này đẩy chúng ta đến chỗ chán nản sâu xa hơn nữa. Làm thế nào chúng ta có thể vẫn trung thành với Hội Thánh, với kinh nghiệm của anh chị em chúng ta và với cả trọn vẹn chức linh mục chúng ta ? Donald Cozzens đã viết rằng thách đố đối với nhiều linh mục chính là ở chỗ “làm sao để là những con người chân thực của Hội Thánh và đồng thời lại vẫn là con người của mình”4.
Điều quan trọng tiên quyết là đừng bao giờ nói những gì chúng ta không tin là thật. Đức Hồng Y Suhard đã viết rằng : “Một trong những việc phục vụ đầu tiên linh mục cống hiến cho thế giới là nói lên sự thật”5. Đây là điều Đức thánh cha Gioan Phaolô II mời gọi chúng ta thực hiện trong thông điệp Veritatis Splendor (Ánh rạng ngời của chân lý). Trong một thế giới đang đói khát chân lý nhưng lại ngờ vực khả năng có chân lý, thì Đức thánh cha mời gọi chúng ta sống chân thật và trọng kính những lời lẽ, những ngôn từ chúng ta sử dụng. Nếu như lời lẽ ngôn từ của chúng ta không vang lên tính xác thực, thì người ta sẽ nhận ra ngay và sẽ thôi không còn kính trọng chúng ta nữa. Chúng ta sẽ đánh mất uy tín, thế giá của chúng ta để công bố Tin Mừng. Tính cách khả tín của chúng ta sẽ mất đi và uy tín, thế giá của Hội Thánh cũng bị vạ lây là suy yếu dần dần. Tệ hại hơn nữa, chúng ta sẽ đánh mất lòng tự trọng và đi đến chỗ khinh thường bản thân mình, từ đó đâm ra chán nản thật sự. Chúng ta nói sự thật như thế nào còn tùy thuộc vào bối cảnh nữa. Ta luôn luôn phải hỏi xem không biết người ta sẽ nghe như thế nào. Cách ta nói trong một bài giảng khác với cách ta có thể nói trong một cuộc họp báo, hoặc trong những lúc trà dư tửu hậu với bạn bè, hoặc trong một buổi bàn bạc riêng tư với nhân viên của Vaticanô.
Cách đây hai năm, cuốn nhật ký của cha Yves Congar ghi lại những năm từ 1946 đến 1956 được xuất bản. Đây quả là một trong những cuốn sách thương đau nhất tôi đã được đọc. Một con người thông minh uyên bác, nhạy cảm và được kính trọng như thế lại từng cảm thấy mình như bị Thánh Bộ đóng đinh. Cha đã bị buộc phải im lặng, chịu hạ nhục và, tệ hại hơn cả đối với một người Pháp, bị gửi sang Anh Quốc để lưu đầy. Thế thì cái gì đã nâng đỡ cha trong suốt cái đêm mịt mùng tăm tối và đầy chán nản ấy ? Thưa đó là lòng tin tưởng rằng cuối cùng chân lý sẽ toàn thắng. Cha đã viết vào năm 1954, tức là vào thời điểm giữa cơn khủng khoảng : “Nói chân lý. Một cách khôn ngoan, không tạo gương mù vô ích hay báng bổ. Nhưng phải, và mỗi lúc mỗi phải nhiều hơn, là một chứng tá chân thực và tinh tuyền của cái là thật”6. Điều ấy đòi phải kiên nhẫn vô cùng. Và kiên nhẫn, theo thánh Tôma Aquinô, chính là trọng tâm của niềm hy vọng. Chúng ta cần khả năng kiên nhẫn chịu đựng của những con người tin tưởng rằng chân lý cuối cùng sẽ xuất đầu lộ diện.
Tôi tin rằng nói sự thật như thế đòi chúng ta hai điều : can đảm và khiêm tốn. Chúng ta cần lòng can đảm, vì nói sự thật sẽ không phải là điều lúc nào cũng được hoan hô, được đón nhận. Trong Hội Thánh, có sự sợ hãi phải tranh luận, và có thái độ ngờ vực, cho rằng nếu chúng ta thực sự bày tỏ những bất đồng của chúng ta, thì uy tín, thế giá của Hội Thánh sẽ bị xói mòn. Thế nhưng tôi tin là chẳng có gì làm cho uy tín, thế giá của Hội Thánh bị xói mòn nhiều cho bằng nỗi ngờ vực khiến chúng ta không nói được điều chúng ta tin. Không gì làm cho tính khả tín của lời giảng thuyết của chúng ta bị xói mòn cho bằng cái cảm thức cho rằng chúng ta là những con người nhát sợ, không dám đưa bước cho dẫu có thể là bước sai. Parrhêsia, nói năng dạn dĩ, của các thánh Tông Đồ nay ở đâu ?
Nhưng nói sự thật cũng đòi chúng ta một lòng khiêm tốn vô cùng, bởi vì chúng ta không thể nói như những người lấy sự thật để trói buộc người khác ! Chúng ta chỉ có thể đóng góp vào cuộc tranh luận mà thôi, vì tin tưởng rằng sự thật sẽ xuất đầu lộ diện, và cứ đóng góp dù có thể thấy té ra chúng ta không đúng. Chúng ta nói ra không phải vì chúng ta có những câu giải đáp cho bằng chúng ta góp phần khám phá ra những câu giải đáp. Và vì chúng ta tin rằng thực ra Chúa Thánh Thần đã được đổ xuống tràn lan trên Hội Thánh, cho nên cần chúng ta không được quá lo lắng nếu như cuối cùng chúng ta có sai. Dân Thiên Chúa sẽ không dễ bị dẫn đi sai đường lạc lối đâu. Tôi có thể thảy thêm vào hai đồng penny nữa, tin rằng, nếu như có sai, thì cũng không đến nỗi làm cho mọi cái đều sụp đổ. Chúng ta không thể tìm ra sự thật trừ phi chúng ta dám đùa với những ý tưởng, thử đưa ra những giả thuyết điên rồ để xem chúng đưa ta đi tới đâu. Cứ đưa ra một ý nghĩ đi và thử thời vận. Nếu chúng ta không vui hưởng sự tự do – trong bất kỳ ý nghĩa nào của chữ vui hưởng – thì chúng ta sẽ không bao giờ có thể kéo mầu nhiệm Thiên Chúa đến gần được.
Có một đường lối của linh mục để nói sự thật. Hôm qua tôi có nói rằng chức linh mục của Đức Kitô hệ tại việc mở rộng vòng tay ôm lấy những gì là xa cách, là tha thể và là xung khắc. Vì thánh Phaolô nói rằng Đức Kitô “là bình an của chúng ta : Người đã liên kết đôi bên, dân Do-thái và dân ngoại, thành một. Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét” (Ep 2,14). Việc nói sự thật của chúng ta bao giờ cũng phải có khả năng chữa lành theo kiểu trên, phải phá đổ mọi bức tường ngăn cách. Nói sự thật theo kiểu này trực tiếp đi ngược với kiểu nói sự thật chúng ta đôi khi thấy nơi các phương tiện truyền thông, có khi là đối chọi, là gây hấn, là hãnh tiến kiêu căng, là “thẳng vào mặt”, là gây chia rẽ. Thực ra, việc nói sự thật của chúng ta có thể đưa chúng ta đến chỗ xung khắc với những người khác, và chắc chắn chúng ta sẽ bị hiểu lầm. Nhưng lúc nào cũng vẫn phải là vươn tới những người chúng ta bất đồng quan điểm, không được nguyền rủa họ, không bao giờ được chế nhạo họ, mà phải giải thích những gì họ nói cách tốt đẹp nhất có thể, và tìm cách khám phá ra sự thật trong những gì họ nói. Thánh Tôma Aquinô đã viết rằng chúng ta luôn phải chú ý đến cả những người chúng ta đồng ý lẫn những người chúng ta bất đồng như nhau. Phải thân ái với cả hai. “Chúng ta phải yêu mến họ, cả hai, những người chúng ta chia sẻ ý kiến của họ cũng như những người chúng ta bác bỏ ý kiến của họ. Cả hai đều đã nỗ lực truy tầm sự thật và cả hai đã giúp chúng ta khám phá ra sự thật”7.
Việc nói sự thật của linh mục này, với lòng can đảm và khiêm tốn, sẽ mang đến cho chúng ta đau khổ. Người ta ra sức để hoặc là bắt chúng ta vào phe của họ hoặc tố cáo chúng ta là những kẻ phản bội Hội Thánh. Có thể chúng ta thấy mình được phong thánh cách giả dối hoặc cảm thấy mình bị lăng mạ. Có thể chúng ta được thủ vai anh hùng hoặc vai phản diện. Thay vì lắng nghe xem hiện chúng ta đang nói gì, lời lẽ ngôn từ của chúng ta sẽ thường bị giải thích theo những thiên kiến của những người khác. Ông ấy khuynh tả hay khuynh hữu ? Ông ấy thuộc phía chúng ta hay thuộc phía họ ? Ông ấy chính thống hay lừng khừng ? Ông ấy có nguyên tuyền không ? Tất cả những điều ấy có thể là cám dỗ khiến chúng ta thôi thì im lặng là thượng sách ? Phải liều ? Hay là có một ai khác sẽ lên tiếng thay. Tuy nhiên, trong Kinh Thánh, ngôi mộ mới chính là chốn thinh lặng, và chúng ta không được để cho sự thinh lặng của ngôi mộ nuốt trửng. Chúng ta rao giảng Chúa Phục Sinh, Đấng đã phá vỡ cái thinh lặng của ngôi mộ. Thế cho nên chúng ta không thể lặng thinh được.
Cái đã nâng đỡ cha Congar trong thời gian đau khổ không phải chỉ là niềm tin của cha vào chiến thắng tối hậu của chân lý mà thôi, nhưng là cái cha gọi là “le fait des frères, enfin”, sự kiện là có những người anh em. Trên hết, chính là với những người anh em và những người bạn hữu mà cha có thể nói, biết rằng mình sẽ được anh em lắng nghe thậm chí anh em có không đồng ý với mình. Trong Hội Thánh, chúng ta đang rất cần có những nơi ở đó chúng ta có thể nói và lắng nghe nhau, với lòng tin tưởng, tín nhiệm, không sợ hãi. Chúng ta đang cần những khoảng không gian ở đó chúng ta có thể truy tìm chân lý cùng với những người thoạt đầu chúng ta không đồng ý. Chúng ta đang cần những khoảng không gian ở đó chúng ta có thể chia sẻ những xác tín sâu xa nhất của mình mà không hề lo lắng không biết mình có đúng, có chính xác không, ở đó chúng ta có thể dám sai, hy vọng rằng có ai đó sẽ đặt một chút chân lý vào trong những lời lẽ ngôn từ còn dò dẫm của chúng ta. Chúa đã bảo chúng ta rằng : “Sự thật sẽ làm cho anh em được tự do”. Thế cho nên chúng ta cũng cần những khoảng không gian ở đó chúng ta có thể tự do truy tầm chân lý.
Từng có nhiều chỉ trích phê bình Thượng hội đồng Giám Mục, vì ở đó có ít khoảng không gian để đối thoại cho sâu xa, như tôi biết vì đã được tham dự ba Thượng hội đồng rồi. Thế nhưng, trách những người khác, đặc biệt là trách các ông chủ, thì lúc nào cũng vẫn cứ là một việc dễ dàng. Đúng hơn, nên hỏi xem chúng ta có thể kiến tạo những khoảng không gian nào trong các giáo xứ, giáo hạt và giáo phận của mình để ở đó có thể nói một cách tự do thoải mái. Nói sự thật trong lòng mến là một nghệ thuật khó lắm. Chúng ta cần phải học. Chúng ta có thể kiến tạo một nền văn hóa nói sự thật ở chỗ chúng ta đang ở như thế nào ? Liệu chúng ta có chỉ nói những gì chúng ta tin tưởng với những người đồng ý với chúng ta mà thôi không ? Chúng ta phải kiến tạo những khoảng không gian nào để nói với những người bất đồng ý kiến với chúng ta ?
Cuối cùng, những khoảng không gian này có thể trở nên những nơi chốn của niềm vui. Những lúc tôi cảm thấy hạnh phúc nhất là những lúc tranh luận với các anh em của tôi, thưởng thức cái thú của sự bất đồng quan điểm, thưởng nếm niềm vui của việc tranh luận. Thấy mình không đúng cũng có niềm vui. Để nói về điểm này, tôi xin mượn đề tựa cuốn sách của James Alison, tôi chưa đọc, “Niềm vui khi thấy mình sai”.

Những chuyện tai tiếng

Trước khi tôi rời Anh Quốc mười năm trước đây, một trong những điều tôi thú vị nhất là được đọc báo thoải mái. Nay tôi thấy điều ấy chán phèo. Ngày nào tôi cũng thấy Hội Thánh bị đưa ra tố cáo. Chúng ta bị tố cáo vì đã thất bại không lên tiếng bênh vực người Do-thái trong Thế chiến thứ hai, bị tố cáo là thối nát, và trên hết linh mục và tu sĩ không ngớt bị tố cáo là lạm dụng tình dục. Ngày nào chúng ta cũng phải ra đứng trước vành móng ngựa. Đối với một người sống trong cộng đoàn, những lời tố cáo như thế đã đủ khó để chịu đựng, huống chi những người sống một mình thì hầu như là không thể chịu đựng nổi. Còn mặt mũi nào để gặp gỡ con người, vì xấu hổ, vì cứ phải thắc mắc không biết người ta đang nghĩ gì ? Vậy liệu chúng ta có thể chịu đựng được tất cả những chuyện ấy mà vẫn giữ được niềm vui như thế nào, hay chí ít cũng không đến nỗi hoàn toàn chán nản và suy sụp ?
Chúng ta phải chấp nhận chịu xấu hổ. Đức Giêsu đến kêu gọi người tội lỗi chứ không phải người công chính, và trong chuyện ấy Người thành công cực kỳ ! Đây là chuyện tai tiếng của Tin Mừng, đó là Thiên Chúa đã dựng nhà của mình với những cô gái điếm và những anh thu thuế, và nay thì Người cũng vẫn còn tiếp tục làm như vậy. Hội Thánh là thánh thiện, đúng như thế. Nhưng đó không phải là sự thánh thiện của Cựu Ước, tức là hàm ý tách biệt khỏi những người tội lỗi. Đấy là sự thánh thiện tai tiếng của Đức Kitô, Đấng đã mở rộng vòng tay ôm lấy những người ô uế, những người tội lỗi, những người thua thiệt và những người chết. Mang lấy sự liên đới với nhân loại tội lỗi là một phần trong việc chia sẻ chức tư tế của Đức Kitô.
Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, chúng ta nghe lời của ngôn sứ Isaia : “Người đã bị thoá mạ mà chúng ta nào có quan tâm gì tới, những đau khổ là của chúng ta, Người lại mang lấy hết, những buồn phiền là của chúng ta Người chịu lấy cả. Thế mà chúng ta lại cứ nghĩ Người là một kẻ bị Thiên Chúa trừng phạt, đánh đòn và hạ thấp”. Cho nên nhẫn nhục chịu đựng xấu hổ về những chuyện tai tiếng ấy có lẽ là cách để chúng ta chia sẻ cuộc thương khó của Đức Kitô, mang lấy những lời trách cứ, những lời tố cáo là những kẻ tội lỗi. Mỗi thế hệ đều có đường lối riêng để chia sẻ cuộc thương khó ấy. Thế hệ chúng ta thì có sự xấu hổ về tất cả những lời tố cáo trên, nhất là tố cáo lạm dụng tình dục. Hẳn nhiên, việc này tiên vàn có nghĩa là xưng thú các tội lỗi của mình và đi tới những nạn nhân, xin họ tha thứ. Và lẽ nào việc này lại chẳng có nghĩa là hiện diện bên những người linh mục bạn mình đã phạm tội, và ở bên những người anh em ấy trong những lúc họ phải chịu xấu hổ trước mặt mọi người ?
Tôi có cảm tưởng là trong cuộc họp tại Dallas, Hoa Kỳ, các giám mục Hoa Kỳ vì cảm thấy quá xấu hổ đối với chuyện tai tiếng ấy cho nên có lẽ các ngài đã hoảng mà đâm ra như thể ruồng rẫy những người phạm tội. Đức Kitô đã đứng bên những người tội lỗi như thế nào, thì chúng ta cũng phải như vậy. Tôi đọc thấy rằng có một vị giám mục chủ trương rằng giáo phận của mình không thể bồi thường những việc làm sai trái của các linh mục trong giáo phận mình được, vì các linh mục ấy là những người ký hợp đồng độc lập ! Một tờ báo địa phương nêu câu hỏi : Thế Đức Giêsu có tỏ ra Người như là một người ký hợp đồng độc lập không ? Chuyện tai tiếng lạm dụng là khủng khiếp. Nhưng có lẽ cũng là kinh khủng khi pha trộn chuyện tai tiếng ấy với chuyện tai tiếng là phân cách Hội Thánh chúng ta ra khỏi những người đã mắc tội lạm dụng. Tôi biết chuyện này sẽ nảy sinh những vấn đề phức tạp vô cùng, mà tôi không có một lời giải đáp rõ rệt nào. Đây không phải là lúc để đi sâu vào vấn đề này. Nhưng ít ra, chúng ta đừng để mình hoảng hốt mà đâm ra ruồng rẫy những người có tội. Điều này có thể cũng gây ra tai tiếng, nhưng có thể đó là tai tiếng của Tin Mừng.
Tôi xin thêm một nhận định nữa. Qua báo chí, tôi nhận thấy có một sự hàm hồ sâu xa về Hội Thánh. Đó là Hội Thánh vừa bị tố cáo lại vừa được kính trọng. Đức thánh cha Gioan Phaolô II vừa là một người đạt kỷ lục vĩ đại về chủ nghĩa tự do, lại vừa là người đưa ra đường lối lãnh đạo về luân lý mạnh nhất trên thế giới. Tôi có cảm tưởng là trong nước chúng ta, Hội Thánh có thẩm quyền về luân lý hơn bất cứ tầng lớp nào kể từ thời Cải Cách, nhưng các nhà báo lại sẵn sàng chộp bất cứ cơ hội nào có thể để làm cho Hội Thánh mất uy tín. Không hiểu sắp tới còn gì nữa ?
Có lẽ có hai chuyện : Trước hết, xã hội của chúng ta khát khao sự hướng dẫn lãnh đạo về luân lý, nhưng đó là kiểu luân lý của những người Biệt Phái (ít ra như được vẽ lên trong các sách Tin Mừng). Họ khát khao có ai đó đưa ra những qui tắc luân lý, không mơ hồ, và họ mong chờ chính Hội Thánh sẽ làm điều ấy. Nhưng rồi họ bị vấp phạm, giống như những người Biệt Phái, khi thấy rằng chúng ta cũng yếu đuối và tội lỗi. Họ mong mỏi ở chúng ta sự hướng dẫn lãnh đạo về luân lý, nhưng lại không thấy rằng trọng tâm của luân lý Kitô giáo chính là sự tha thứ, và Thiên Chúa lại chọn một lô những cá tính đầy nghi ngờ và và tội lỗi làm bạn hữu và làm người phục vụ. Phải chăng Hội Thánh đôi khi quá an tâm vì được người ta mong mỏi ở mình một cái gì đó, hướng dẫn lãnh đạo về luân lý chẳng hạn, đến độ lại không cống hiến được trọng tâm của chính luân lý Kitô giáo, tức là liên đới với những người tội lỗi chăng ? Liệu chúng ta có bị bắt ép hoặc bị dụ dỗ nhảy vào chơi cuộc chơi của một ai đó khác không ?
Tuy nhiên, có điều này còn mơ hồ hơn nữa : Cái trung tâm mua sắm vĩ đại chính là cái thế giới của chúng ta hiện nay. Bề ngoài ra như nó sẵn sàng thoả mãn bất kỳ điều gì tâm hồn con người khao khát. Mọi thứ người ta có thể cần đều được bày bán ở đây. Những khát vọng mới cứ luôn luôn được sáng chế ra để làm cho người tiêu thụ sập vào cái bẫy trung tâm mua sắm giăng ra mà tìm thoả mãn không dứt. Nhưng mà chúng ta lại bị cái giấc mơ muốn nhiều hơn thế nữa ám ảnh, mơ niềm vui không thể có được, rồi hạnh phúc không thể tưởng được, tức là những thứ không phải cứ tới Sainsbury mua là được. Hội Thánh vẫn còn nét hấp dẫn vĩnh cửu chắc chắn là ở điểm này. Hội Thánh đã và vẫn đang là ngôi nhà cho những con người mang đậm dấu vết của niềm vui đầy kích động như thế. Xã hội của chúng ta nhận thấy nét lôi cuốn vĩnh cửu nơi những con người như thánh Phanxicô Assisi hay Mẹ Têrêsa Calcutta, điều ấy cho thấy rằng cơn đói khát hạnh phúc mênh mông vẫn chưa chết hẳn. Từ sâu xa, chúng ta biết rằng trung tâm mua sắm rồi cuối cùng lại cũng sẽ thành nhàm thành chán.
Thế nhưng nếu các vị thánh ấy đúng, tức thị niềm vui đòi chúng ta một cuộc phiêu lưu anh hùng mà chúng ta không được sợ phải xông vào. Chúng ta biết rằng cuộc phiêu lưu mời gọi chúng ta bỏ lại đằng sau những thỏa mãn nông cạn của trung tâm mua sắm để lên đường. Và đây là điều dễ làm cho ta hoảng sợ. Tôi có ý nói rằng một số điều mơ hồ của báo chí về Hội Thánh phát xuất từ cái tâm hồn bị phân chia trên kia. Nó cứ ước ao muốn tin rằng niềm vui không thể tả, không thể tưởng là có thể có, nhưng lại sợ phải khám phá thấy niềm vui ấy đang ở đây này. Nếu niềm vui ấy là có thể, tất nhiên chúng ta phải khởi sự một cuộc hành trình vất vả gian nan. Đấy chính là nguyên do tại sao lại có cả một cảm thức nhẹ tênh khi thấy hoá ra các thánh cũng có những bàn chân bằng đất sét. Xét cho cùng chẳng cần lắng nghe họ. Nhẹ tênh như thế nào ! Jean-Louis Bruguès, một giám mục Đa Minh người Pháp, có viết rằng người xuất thân từ một miền đất vốn đức tin sâu xa nhưng chống chủ nghĩa giáo sĩ cũng lại mạnh mẽ không kém. “Người ta không hề khoan nhượng với linh mục tu sĩ, người ta muốn họ là những con người mẫu mực và không một yếu đuối nào của họ được dung thứ. Chỉ một lỗi nhỏ của họ thôi là người ta la toáng lên. Thế nhưng người ta lại mong được hiểu, được thông cảm thật nhiều đối với những lỗi lầm của người ta. Những người thánh hiến đã biến thành một vật thay thế cho sự toàn hảo mà đại đa số hằng mơ ước và xét thấy không thể có được”8. Tôi nghĩ rằng xã hội của chúng ta bị giấc mơ về một niềm vui tuyệt hảo ám ảnh, cho đó là không thể nhưng lại rất khát khao và cũng lại vừa sợ hãi vừa hy vọng khám phá được. Đó chính là căn nguyên của sự mơ hồ dính dáng đến Hội Thánh.
Đó là lý do tại sao khi đối diện với những lời tố cáo, xấu hổ và tai tiếng, chúng ta cần phải giữ lấy giấc mơ về một niềm vui ra như không thể được như thế trong tâm hồn chúng ta cho sinh động. Chúng ta cũng có thể bị cám dỗ đầu hàng và tìm thỏa mãn trong những chuyện vặt vãnh. Tôi nhớ là vào năm 1965 khi tôi vào Dòng, lúc đó tôi mới hai mươi tuổi, còn trẻ, tôi mơ mình sẽ trở nên thánh thiện, có lẽ lúc đó tôi còn mơ trở thành một ông thánh nữa cơ. Rồi đến một cảm thức khủng khiếp khi khám phá thấy rằng vào cuối thập niên sáu mươi thì một ý tưởng như thế đã lỗi thời rồi. Bây giờ thì chúng ta lại mong mỏi sự công chính của Vương Quốc. Muốn trở nên thánh thiện hình như bây giờ lại bị xem là hơi ích kỷ và qui ngã. Thật là nhẹ tênh khi ra như không còn gì câu thúc ta vào cuộc vật lộn để nên thánh thiện nữa. Tuy nhiên, thánh thiện kiểu đó chỉ là mây bay gió thoảng không thể duy trì được lâu. Nhà giảng thuyết phải để cho niềm vui nhiệm mầu đụng chạm tới, niềm vui ấy chính là sự thưởng nếm Vương Quốc trước vậy. Nhưng mơ một niềm vui như thế sẽ không thể nào thành hiện thực được nếu không có một cuộc biến đổi chính bản thân, cho nên, giống như thánh Âu Tinh, tôi thấy mình cũng phải thưa với Chúa : “Xin làm cho con nên thánh, nhưng chưa phải ngay bây giờ”. Nếu ngay bây giờ chúng ta chỉ sống với một chút xíu niềm vui của Vương Quốc thôi, thì niềm vui ấy sẽ lây lan rất mạnh và chúng ta sẽ có thể cống hiến lời giảng tuyệt vời hơn bao giờ hết. Nhưng như thế lại có thể khiến cho người ta không tin, nghi ngờ và tố cáo, như Đức Giêsu đã phải chịu khi Người tiệc tùng với các cô gái điếm và những người thu thuế.

Đừng quên cốt truyện !

Suốt hai bài nói chuyện vừa qua, tôi đã nói rằng niềm vui ở ngay chính giữa ơn gọi linh mục chúng ta. Vào thời điểm này, có đủ thứ nguyên do giải thích tại sao chúng ta lại cảm thấy chán nản, và đôi khi tất cả chúng ta không thể thoát khỏi ưu sầu được. Tuy nhiên, Tin Mừng chúng ta có nhiệm vụ rao giảng qui tụ chúng ta trở về với niềm vui. Tin Mừng cũng đánh thức nỗi buồn phiền và nóng giận trong con người chúng ta, nhưng không có sự chết hay chán nản hoàn toàn. Vì như thế là đi ngược với chính ý nghĩa của cuộc đời chúng ta.
Làm cách nào chúng ta có thể duy trì hoặc làm sống lại niềm vui đó ? Hôm nay tôi chỉ xoay quanh một số thách đố mà linh mục chúng ta đang phải đương đầu trong khi chúng ta sống hài hoà với Hội Thánh phổ quát. Và tôi đã cố gắng, tuy rất là khập khiễng, để nêu lên cho thấy làm thế nào để trong mỗi một trường hợp chúng ta đều có thể khám phá ra những tia sáng le lói của niềm vui. Hố ngăn cách giữa giáo huấn của Hội Thánh, nhất là giáo huấn về luân lý, với kinh nghiệm của xã hội chúng ta quá lớn đến nỗi có thể làm cho chúng ta cảm thấy như là phải gánh một gánh nặng giáo huấn xem như xa vời, không thể hiểu và không thực tế. Chúng ta đang sống trong cái hố ngăn cách đó với một tâm hồn bị phân chia. Tuy nhiên, có thể đấy lại chính là nơi sinh nở, nơi Lời trở thành xác phàm theo một cách thức mới, nhập thể một cách thắm tươi vào thế giới phàm tục của chúng ta. Sinh nở vẫn luôn luôn là vất vả đau đớn nhưng cuối cùng là vui. Chúng ta phải có sự kiên nhẫn của các bà đỡ. Chúng ta nói chuyện tầm phào quanh chiếc giường. Nhưng là kiên nhẫn chờ đợi.
Rồi đến cơn đau dữ dội hơn, ấy là khi một số trong chúng ta đâm ra ngờ vực một vài tuyên ngôn chính thức của Hội Thánh. Vậy, chúng ta có thể giảng dạy mà vẫn không mất đi tính cách toàn vẹn và lòng trung thành của chúng ta như thế nào ? Chúng ta cần mở ra những khoảng không gian dành cho việc đối thoại trong Hội Thánh, ở đó chúng ta có thể cùng nhau tái khám phá niềm vui của việc đi tìm chân lý, và cả niềm vui vì không sợ lỡ có sai. Sau hết, chúng ta chia sẻ nỗi nhục nhằn và xấu hổ trong những lời tố cáo chống lại Hội Thánh chúng ta yêu mến. Ở đây, chúng ta phải dám nên giống như Đức Kitô, “Đấng vì niềm vui đã được đặt ở phía trước, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục, và nay đang ngự bên hữu ngai Thiên Chúa” (Hr 12,2).
Chúng ta có thể nuôi dưỡng niềm vui ấy như thế nào ? Chúng ta phải bám sát cốt truyện ! Cốt truyện thật là cốt truyện chúng ta đi vào khi chúng ta chịu phép thánh tẩy : cuộc thương khó, cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô. Chính chúng ta sẽ kể câu chuyện gì ? Bi kịch nhờ đó chúng ta sống là bi kịch nào ? Phải đó là câu chuyện đi tìm niềm vui trong việc tiêu thụ ? Chúng ta là những thành viên của một xã hội sống bằng những câu chuyện khác nhau. Thực vậy, xã hội phương Tây ở vào đầu Thiên niên kỷ thứ ba là một xã hội thượng tôn những câu chuyện thị trường, chợ búa. Thế giới theo chủ nghĩa tư bản cổ xưa, sản xuất hàng hoá và đem bán, nay biến mất. Ngày nay, kỹ nghệ rộng lớn nhất là giải trí, là bán những bi kịch nói về “xã hội kinh nghiệm” mới của chúng ta9. Cuộc sống đang trở thành trò giải trí và câu chuyện đặc trưng của nền văn hóa chúng ta chính là các soap opera10. Cái gì cũng đều được chuyển đổi thành soap opera đang diễn, đấy chính là nền văn hóa phương Tây. Chuyện nổi, chuyện chìm của các ngôi sao, của các nhân vật danh tiếng, chuyện những vụ tai tiếng của các chính khách, chuyện tội lỗi của các linh mục tu sĩ. Mọi chuyện đều được chuyển đổi thành sản phẩm đang diễn của “Con Đường Đăng Quang”, tức là câu chuyện của cuộc đời chúng ta. Đây là những bi kịch hình thành nên tâm thức chung của chúng ta cũng như nên hình ảnh của Hội Thánh. Thành công và thất bại của chúng ta cũng trở thành một phần của kỹ nghệ giải trí nốt.
Trong những câu chuyện này, không hề thấy đá động gì tới vận mệnh tối hậu của nhân loại. Những điều không tưởng nay đã biến mất. Đây là một xã hội với một chút xíu ý nghĩa về tương lai. Chúng ta đang sống trong Cái Bây Giờ. Người ta cho bảo rằng “tương lai đang được rút ngắn lại để trở thành cái ngắn hạn của hiện tại, cái tương lai đó chúng ta có thể suy ra từ cái hiện tại này, cái tương lai đó chúng ta đã định vị được rồi và đã sắp xếp được nó rồi”11. Câu chuyện dài duy nhất đang bắt đầu hình thành tâm thức của nhân loại chính là câu chuyện về hành tinh này. Câu chuyện kể rằng có thể xảy ra thảm họa sinh thái và chắc chắn trái đất bị chết cóng. Nhưng đấy không phải là câu chuyện đem lại cho cuộc sống nhân loại một ý nghĩa nào cả. Xét như một nền văn hóa, chúng ta không có một câu chuyện dài nào để kể về nhân loại cả. Lịch sử đã kết thúc. Đấy chính là lý do tại sao soap opera lại là nét đặc trưng của thời đại, vì đó chỉ là hồi này tiếp nối hồi kia, không có hậu.
Một lão phụ sa mạc đang ngồi ở lối vào túp lều của ông, chợt ông thấy đám thanh niên đi qua, cười đùa chọc ghẹo nhau. Ông tức. “Chúng bay đang đối diện với ngày chung thẩm, thế mà còn dám cười với cợt nữa à ?” Đối với phần lớn chúng ta, hẳn là có một nẻo khác. Chúng ta dám vui là vì chúng ta biết rằng Con Đường Đăng Quang không phải là cứ đi mãi đi mãi đến vô tận được (thú thật là tôi chưa hề nhìn thấy Con Đường Đăng Quang bao giờ). Tât cả chúng ta đều được đưa vào một câu chuyện, câu chuyện này, nhờ lòng thương xót của Thiên Chúa, đưa dẫn chúng ta tới niềm vui. Có điều chúng ta phải bám sát cốt truyện.
Đây là câu chuyện làm nên từng năm phụng vụ của chúng ta. Như tôi đã nói hôm qua, tôi tin rằng chúng ta còn cần nhiều hơn nữa. Chúng ta cần vun đắp một lối sống giúp chúng ta thưởng nếm sự nghỉ ngơi và niềm vui của Vương Quốc ngay từ bây giờ. Chúng ta cần một nhịp điệu cho cuộc sống – hằng tuần, hằng tháng, hằng năm – để giúp chúng ta triển nở hơn là chỉ để sống còn. Mặt khác, chúng ta có thể thực hiện được một chế độ giải trí điều độ và rồi sẽ thấy cuộc sống của chúng ta cũng như những vở soap opera, ngày này qua ngày nọ, hồi này nối tiếp hồi kia, nhưng không phải chẳng đưa chúng ta đến chỗ nào hết, cũng chẳng làm cho chúng ta tìm thấy bầu khí vui tươi đâu. Không biết có ai trong anh em ở đây đã xem phim “The Mysteries” (Các Huyền Nhiệm) chưa. Đây là một cuốn phim của Nam Phi, nói về một trò chơi huyền nhiệm. Nó dẫn chúng ta đi từ công trình sáng tạo thế giới đến cuộc Phục Sinh. Phim làm cho người ta cười từ đầu đến cuối. Đúng là phim vui, vì nó kể câu chuyện thật của chúng ta.
Thường thì chính Dân Thiên Chúa giữ cho kỷ niệm ấy luôn sống động khi chúng ta gặp nguy cơ quên kỷ niệm ấy. Chúng ta cũng cần nhắc nhở nhau. Khi Đức Giêsu ra đi đối diện với cái chết, đối diện với thất bại và sụp đổ, Người nói với các môn đệ : “Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó, nhưng can đảm lên ! Thầy đã thắng thế gian (Ga 16,33). Trong cộng đoàn Kitô hữu, mỗi chúng ta đều là người bảo vệ gìn giữ những lời ấy cho nhau, để chúng ta được phấn chấn hơn, được mạnh dạn hơn. Là linh mục, chúng ta có thể duy trì kỷ niệm ấy cho nhau như thế nào ?

2 Priesthood in Reality : Living the vocation of a diocesan priest in a changing world, Bury Edmunds 1998, p. 88.

3 Sđd, tr. 59.

4 Changing face of Priesthood, tr. 15.
5 Sđd.
6 Journal d’un théologien 1946-1956, éd. Fouilloux, Paris 2000 tr. 271.

7 Chú giải về Siêu hình của Aristote.
8 L’éternité si proche. Giảng cấm phòng Mùa Chay 1995, tại nhà Thờ Đức Bà Paris, Paris 1995, tr. 140.

9 C.f. Jeremy Rifkin. The Age of Access : How the shift from ownership to access is transforming modern life. London 2000.
10 Chương trình truyền thanh hay truyền hình đề cập đến những biến cố hay những vấn đề của đời sống thường nhật, thường có vẻ ướt át (ND).
11 Richard Bauckham and Trevor Hart. Hope against Hope : Christian Eschatology in Contemporary Context. London 1999, tr. 26.

Aucun commentaire: