Bài thuyết trình của cha
Timothy
Radcliffe, o.p., tại Hội Nghị Các Linh Mục Toàn Quốc ở
trường Trung Học Digby Stuart, Roehampton, Anh Quốc, 27.9.2002
Hôm qua tôi đã trình bày với
anh em rằng có một sự mâu thuẫn nội tại giữa một
bên là làm một người linh mục và một nhà giảng thuyết
với một bên là cứ phải sống trong một tình trạng
chán nản dai dẳng. Chúng ta không thể nào là những người
giảng thuyết Tin Mừng có sức thuyết phục, nếu như
chúng ta cứ phải ngụp lặn năm này qua năm khác trong ưu
sầu chán nản. Niềm vui là một phần trong ơn gọi của
chúng ta, vì niềm vui là trọng yếu đối với ơn gọi
làm người. Thôi thì thản hoặc chúng ta có thể thấy
mình buồn phiền hoặc thậm chí nóng giận, nhưng sự
chán nản lại đe dọa chính cuộc đời của chúng ta. Hôm
qua, tôi đã lược qua đôi chút về đời sống tâm linh
của linh mục, coi đó như là một lối sống chan hoà với
cộng đoàn địa phương của mình. Tôi cũng đã nêu lên
một số vấn đề thực sự có thể làm cho linh mục cảm
thấy xuống tinh thần : những khó khăn trong việc lãnh
đạo, tính chất mong manh của cộng đoàn giáo xứ, và sự
kiện ngày này qua ngày khác cứ phải liên luỵ, cứ phải
dính dáng vào biết bao thất bại và đau thương. Vậy
chúng ta làm thế nào để có thể vẫn vui khi đối diện
với tất cả những chuyện như thế ?
Hôm nay, tôi xin được lướt
qua một loạt những vấn đề khác. Có thể đời sống
của người linh mục tập trung vào cộng đoàn địa
phương của mình, nhưng linh mục ấy cũng lại là người
đại diện cho Hội Thánh phổ quát trước mặt cộng đoàn
địa phương ấy nữa. Chính điểm này sẽ đưa tới
những thách đố riêng và những động cơ tiềm tàng dẫn
tới tâm trạng chán nản. Người linh mục có thể trình
bày giáo huấn của Hội Thánh như thế nào nếu như giáo
huấn ấy ra như xa vời đối với những kinh nghiệm của
giáo dân mình ? Người linh mục có thể là đại diện
trung thành cho Hội Thánh như thế nào nếu như chính bản
thân người linh mục lại cảm thấy không thoải mái đối
với một số những tuyên ngôn của Huấn Quyền ? Người
linh mục có thể đứng trước Dân Thiên Chúa với lòng
tin tưởng và niềm vui như thế nào khi chính mình lại
biết rằng mọi người đều đã biết những lời tố
cáo chống lại Hội Thánh qua các phương tiện truyền
thông ? Tôi xin trình bày vắn tắt những vấn đề này,
theo thứ tự khó khăn từ ít đến nhiều, và rồi xem
chúng ta phải đối diện với những vấn đề trên thế
nào mà lòng vẫn giữ được niềm vui. Xin cầu cho tôi
biết trình bày cho ra !
Giữa “tảng đá và chốn
khô cằn”
Một nguyên nhân gây đau thương
và thậm chí chán nản đối với các linh mục, đó là
khi thấy mình ở giữa một bên là cộng đoàn địa
phương với một bên là Hội Thánh phổ quát. Phần lớn
các linh mục rất chan hòa với cộng đoàn địa phương
của mình. Chúng ta khám phá ra ý nghĩa chức linh mục của
mình khi chia sẻ cuộc đời với những con người cụ thể
ấy. Chúng ta chia sẻ những chiến đấu của họ, vui mừng
khi họ chiến thắng, ở bên cạnh họ khi họ thất bại,
và chúng ta được dưỡng nuôi nhờ đức tin của họ.
Nhưng linh mục cũng còn là những người đại diện cho
Hội Thánh phổ quát. Khi chúng ta giảng thuyết, chúng ta
không được chỉ dán mắt vào những mảng riêng biệt
nào mình ưa mình thích để truyền bá quan điểm của
mình. Chúng ta được mời gọi để công bố Tin Mừng và
giáo huấn của Hội Thánh. Thế nhưng, chúng ta có thể
thấy ngay là nhiều điều chúng ta phải giảng dạy lại
ra như xa vời, không thể hiểu được và lại còn không
thực tế đối với kinh nghiệm của giáo dân chúng ta.
Lắm khi những người giáo dân nghe với cặp mắt đờ
đẫn.
Rõ nhất là trường hợp liên
can đến giáo huấn về luân lý và đặc biệt là về
tính dục. Giáo huấn của Hội Thánh về luân lý tính dục
vốn kiên quyết và minh bạch. Cái khó là, ở một vài
nơi nếu không muốn nói là ở hầu hết các nơi, nhiều
tín hữu chúng ta đang sống với họ hoặc không chấp
nhận giáo huấn này, hoặc giả có thì lại thấy rằng
khó hay thậm chí không thể sống được như vậy. Ở một
số nơi trong xã hội của chúng ta, hoặc ở nhiều nơi
khác trên thế giới, hầu hết người dân không sống đời
sống tính dục trong khung cảnh đời sống hôn nhân, nghĩa
là một đời sống mở ra đón nhận con cái. Hầu hết
những người trẻ tôi quen biết đều hoặc là đang sống
với người tình của mình, sử dụng các phương pháp
tránh thai, hoặc ly dị, tái kết hôn hay đồng tính luyến
ái. Thế thì có thể làm cách nào để sống đời linh
mục của chúng ta hài hòa với những con người như thế,
đồng thời cũng xây dựng cộng đoàn, một khi chúng ta
được coi như những người đại diện công khai cho một
quan điểm luân lý mà phần lớn người ta hoặc là không
chấp nhận hoặc cảm thấy không thể sống được ? Về
điểm này, tôi không có ý nói đến chân lý trong giáo
huấn này của Hội Thánh, mà chỉ nhắm đến tính cách
không thể hiểu được đối với hầu hết dân chúng. Có
thể chúng ta yêu mến giáo huấn luân lý của Hội Thánh
và xác tín sâu xa nữa là đàng khác, nhưng chúng ta vẫn
cảm thấy nản vì nhận thấy có một hố ngăn cách quá
lớn giữa quan điểm luân lý chúng ta được mời gọi
công bố với cuộc sống hiện thời của những người
chúng ta đang sống với họ và sống cho họ. Nào, chúng
ta đối diện với vấn nạn này. Thực mà nói, hầu hết
chúng ta, nếu chúng ta ở vào hoàn cảnh của họ, có lẽ
chúng ta cũng thấy mình đang ở trong cùng một tình trạng
như họ hiện đang gặp. Tôi chắc chắn rằng tôi cũng
như thế thôi !
Nỗi khổ trong tình trạng tiến
thoái lưỡng nan này một phần là vì nó đi ngược lại
với ý tưởng về chức linh mục chúng ta khai triển ngày
hôm qua. Chức linh mục của Đức Kitô đã được trình
bày như là vòng tay ôm ấp những con người đang ở bên
lề, những người đang ở trong tình trạng ô uế, những
kẻ tội lỗi, những người lang thang phiêu bạt, những
người yếu đuối và những kẻ lạc loài. Cử hành Thánh
Thể và nhìn thấy quá nhiều những con người bị loại
trừ như thế không phải chỉ là đau đớn sâu xa mà
thôi. Chuyện đó còn ra như đi ngược với vòng tay rộng
lớn muốn ôm trọn lấy cái kiếp nhân sinh loay hoay đổ
đốn này, tức là chính ý nghĩa của Thánh Thể. Tất
nhiên, về vấn đề này, “giải pháp mục vụ” là nháy
mắt, là thúc cùi chỏ cũng xong. Nhưng khi nhìn vào vấn
đề này để tìm một lối ra, hay đúng hơn là lối vào,
cho biết bao nhiêu những con người như thế, tức thị ta
lại thoáng thấy thất vọng và sợ hãi khi phải đối
diện với vấn đề.
Một số nhà thần học luân
lý bảo rằng, cái hố ngăn cách giữa giáo huấn của Hội
Thánh với kinh nghiệm trong đời thường của dân chúng
càng lúc càng sâu hơn kể từ thời Công Đồng Trentô. Ở
thời Trung Cổ, thần học luân lý được coi như một sự
khôn ngoan thực tiễn, không thể tách ra khỏi những kinh
nghiệm sống. Sau thời Cải Cách, vì muốn cho rõ ràng và
chắc chắn, thế là vấn đề lại thành ra trừu tượng
và có tính cách diễn dịch nhiều hơn. Nó khởi đi từ
những nguyên tắc tổng quát để đi tới những kết luận
tổng quát, mà không hề để ý xem những người nam người
nữ đang sống hiện nay như thế nào cho lắm. Theo vị
thánh quê ở Aquinô, Luật Tự Nhiên là điều chúng ta
phải khám phá không phải chỉ trong mạc khải mà thôi,
nhưng còn qua kinh nghiệm nữa. Sau Công Đồng Trentô, Luật
Tự Nhiên được trình bày một cách trừu tượng hơn và
hiển minh hơn. Thế nhưng cái thành quả xa hơn này lại
mở rộng thêm cái hố ngăn cách giữa quan điểm với
thực tế. Người ta hay đổ lỗi sự việc này khi cho
rằng sở dĩ như thế là do thần học luân lý của Dòng
Tên chiếm ưu thắng. Nhưng tôi, một tu sĩ Đa Minh chính
cống, tôi không hề đổ lỗi cho các anh em Dòng Tên,
những người bạn hữu của chúng tôi !
Vậy, chúng ta có thể sống
như thế nào trong cái khoảng không gian giữa quan điểm
luân lý với những gì con người hiện nay đang sống mà
không nản lòng nhưng thậm chí còn tràn đầy niềm vui ?
Cha Tony Philpot kể lại là cách đây nhiều năm, ông đi dự
cuộc nói chuyện của Đức hồng y Ratzinger tại Cambridge.
Đó là một bài thuyết trình sâu sắc tuyệt vời về
những nguyên tắc luân lý tổng quát. Nhưng đến khi Tony
về lại giáo xứ mình, về lại nơi ăn chốn ở của
những con người đang ngày đêm bon chen để sống còn,
thì ở đấy những gì Đức hồng y đã nói chẳng có một
tí ý nghĩa nào cả. Tony mô tả tình trạng này như là
đang phải sống trong cái khoảng không gian giữa cái tổng
quát với cái đặc thù, như là đang phải đong đưa giữa
cái trừu tượng và cái cụ thể. Và đấy chính là nơi
người linh mục được mời gọi tới để hiện diện.
"Quả là … không thú vị khi phải ở vào cái khoảng
không gian giữa cái tổng quát với cái đặc thù, giữa
tảng đá và chốn khô khan cằn cỗi. Đúng là chẳng thú
vị khi phải thuộc về cái thế giới chính thống, nhưng
lại phải mất quá nhiều thời giờ và sức lực của
mình với những người không chính thống, và thực ra là
thuộc về cả cái thế giới của họ nữa. Tôi xin nói
với những người đang chuẩn bị lãnh tác vụ linh mục
giáo phận biết rằng cái tâm hồn bị phân chia như thế
chính là nỗi đau đặc trưng trong ơn gọi của chúng ta,
và nếu như chúng mình cảm nghiệm được nỗi đau này,
tức thị đó là dấu cho thấy chúng mình sẽ là những
người linh mục tử tế”.
Bước thứ nhất và là bước
đúng, đó là biết rằng linh mục chúng ta là những người
thuộc về một chỗ như thế. Vị trí ở giữa tảng đá
và nơi khô cằn này là vị trí chúng ta đang sống ơn gọi
của chúng ta. Tôi xin nêu lên bước thứ hai. Trung tâm đức
tin của chúng ta chính là Lời đã trở thành xác phàm.
Lời không bao giờ lại cứ ở trong tình trạng trừu
tượng, tổng quát và xa vời. Lời của Tin Mừng vẫn cứ
là đang đi tới một cuộc sinh ra mới, một cuộc chào
đời mới, cho dù là ở Anh Quốc, Brazil hay Rôma đi chăng
nữa. Là những nhà giảng thuyết, chúng ta đừng bao giờ
chỉ trao đi lời trừu tượng. Chúng ta vẫn đang tìm cách
đưa Lời của Tin Mừng đến chỗ sinh ra, đến chỗ chào
đời, ngay bây giờ, trong cộng đoàn chúng ta đang sống
này, qua ngôn ngữ riêng, trong những cơ cấu xã hội
riêng, trong những thành công và thất bại, trong sự giàu
sang thịnh vượng và nghèo khó riêng. Nhà giảng thuyết
chính là bà đỡ trong tiến trình này. Nhà giảng thuyết
lắng nghe Tin Mừng và giáo huấn của Hội Thánh, lắng
nghe ngay từ bên trong nền văn hóa của riêng dân tộc
mình, để xem Lời Thiên Chúa đang ra đời ở đây và lúc
này, tươi xinh như một em bé, với nét mới mẻ vĩnh hằng
của Thiên Chúa như thế nào.
Vì thế, sự chia cắt giữa
giáo huấn của Hội Thánh với kinh nghiệm của những
người đang sống với chúng ta đúng là một chuyện đau
thương. Chính đây là nơi chúng ta được mời gọi đến
hiện diện, với một tâm hồn bị phân chia, theo như cách
nói của anh Tony. Nhưng chúng ta cứ phải ở lại đây để
cho Lời mới được chào đời, sao cho bi kịch Nhập Thể
lại có thể diễn ra một lần nữa trong chúng ta và qua
chúng ta. Để được như vậy, chúng ta phải sống hài
hoà thực sự với những người đang cảm thấy mình bị
loại ra khỏi Hội Thánh do những hoàn cảnh “bất qui
tắc” của họ chẳng hạn. Chúng ta phải đặt mình vào
hoàn cảnh của họ – nếu như trước đây chúng ta đã
không có mặt ở đó – để nghe bằng đôi tai của họ,
để nhìn với cặp mắt của họ, để cảm thấy bằng
làn da thớ thịt của họ, và theo nghĩa nào đó, để là
chính họ nữa. Và rồi cùng với họ khám phá ra điều
cần phải được nói lên. Thiên Chúa đã trở thành con
người, chúng ta cũng phải như vậy. Sống trong sự chia
cắt này, nghĩa là giữa cái trừu tượng với cái đặc
thù, là đau thương thật, nhưng đó có thể lại là cơn
đau đẻ. Và, như chúng ta ai cũng biết, sau cơn đau đẻ
là niềm vui. “Khi sinh con, người đàn bà lo buồn vì
giờ của mình đã đến ; nhưng khi sinh em bé rồi, thì bà
không còn nhớ đến cơn gian nan nữa, bởi niềm vui vì có
một con người đã sinh ra trong thế gian” (Ga
16,21).
Muốn kiên trì đứng thẳng
làm cây thông mà lại sinh sản, chúng ta cần nhiều thứ.
Một trong những thứ chúng ta cần nhất, đó là cần có
nhau, cần sự nâng đỡ của các anh em linh mục bạn hữu
của chúng ta. Chúng ta bị kẹt giữa hai cảm thức mạnh
mẽ của việc chúng ta thuộc về ai này. Chúng ta thuộc
về anh chị em của chúng ta, và còn là một với họ nữa.
Nhưng chúng ta cũng lại thuộc về Hội Thánh phổ quát và
còn là đại diện cho Hội Thánh phổ quát nữa. Trong tình
thế căng thẳng này, chúng ta có thể được nâng đỡ
nhờ một cảm thức mạnh mẽ là chúng ta thuộc về và
với nhau. Có thể ví linh mục đoàn như thể một Liên
Hiệp Các Bà Đỡ trong Hội Thánh ! Thường chúng ta hay
bị rơi vào cái cảm thức cá nhân chủ nghĩa hơi cao về
chức linh mục. “Ấy, mình là chánh xứ ở cái giáo xứ
này đấy nhá. Mình cai quản giáo xứ này. Mình không muốn
bất cứ ai xía vào cả, dù đó là các cha ở các giáo xứ
lân cận, dù là Đức giám mục giáo phận, mà cả Rôma
nữa”. Tất nhiên, linh mục giáo phận là phải mạnh đủ
thì mới có thể đối phó nổi với trăm công ngàn
chuyện. Phải là một đấng nam nhi không biết hãi sợ cô
đơn. Tôi không biết nếu tôi ở vào hoàn cảnh như thế,
tôi có đối phó nổi không. Tôi cần có một cộng đoàn,
hoặc giá như không có cộng đoàn, thì tôi cũng đã phải
lập gia đình từ lâu lắm rồi ! Tuy nhiên, sự cô độc
như thế không được tôn lên hay để biện minh cho một
thứ cá nhân chủ nghĩa sâu xa, một nỗi cô đơn bất khả
đụng chạm, một thứ người hùng, một thứ nam nhi chí
khí đầy tự mãn được. Chúng ta cần nhau. Tình huynh đệ
của chúng ta với các linh mục bạn hữu của chúng ta là
một phần thâm sâu trong những gì chúng ta là, và chính
mối tương quan này nâng đỡ chúng ta trong cái cảm thức
thuộc về hai bên vừa nói, tức là vừa thuộc về cộng
đoàn địa phương lại vừa thuộc về Hội Thánh phổ
quát. Tông huấn Pastores dabo vobis đã nói : “Thừa
tác vụ theo chức thánh có ‘dạng thức cộng đoàn’
rất sâu xa, và chỉ có thể thực hiện được như là
một ‘công việc tập thể’”. Ngày xưa, khi một em bé
săp chào đời, mọi người phụ nữ trong làng quây quần
chung quanh giường để phụ giúp công việc sinh nở. Đấy,
chúng ta cũng cần sự nâng đỡ của nhau trong việc làm
cho Lời Thiên Chúa được nhập thể ở đây và lúc này.
Điều vừa nói trên cũng hàm
ý phải đón nhận Đức giám mục như là người anh em
của chúng ta vậy. Trong Sắc lệnh Presbyterorum
Ordinis (về chức vụ
và đời sống linh mục) có viết rằng : Đức giám mục
phải coi các linh mục trong giáo phận của mình là những
người anh em và những người bạn hữu. Cha Tony Philpot
còn nhấn mạnh rằng : nếu chúng ta phải có một mối
tương quan huynh đệ đích thực với Đức giám mục của
mình, thì điều ấy không chỉ hàm ý rằng người phải
đối xử với chúng ta như là những người anh em mà
thôi, nhưng chúng ta cũng phải xử sự với người như là
với một người anh em nữa. Một số linh mục không muốn
coi Đức giám mục như là một người bạn hữu hoặc một
người anh em. Vì như thế là gần gũi quá. Một số muốn
làm giám mục, còn một số khác lại muốn tránh giám
mục. Một số muốn Đức giám mục phải là một người
cha có khả năng giải quyết những khó khăn của mình và
để giải trách nhiệm cho mình, rồi cũng là người để
mình có thể trách cứ, có thể đổ lỗi khi có điều gì
trục trặc xảy ra. Cha Tony còn viết : “Nếu Công Đồng
Vaticanô II nói Đức giám mục phải xử sự với các linh
mục như là những người anh em và những người bạn
hữu, thì các linh mục cũng phải đi vào cung cách xử sự
như thế. Một phần của việc coi người khác như những
người anh em và những người bạn hữu của mình, đó là
bạn cũng phải đón nhận những giới hạn của chính con
người họ, và việc đón nhận những lỗi lầm và sự
hoà giải là điều có thể. Con đường hai chiều là
đây”.
Đây chính là nơi chúng ta phải học cho biết thế nào là
lãnh đạo như tôi đã gợi ý hôm qua, bằng cách trở
thành người đi bước trước. Sự kiện Đức giám mục
không tới với chúng ta, chưa ra như là những người anh
em và những người bạn hữu, không miễn cho chúng ta
khỏi phải xử sự với người như thế. Chính chúng ta
cũng phải thi hành việc lãnh đạo, vươn tới Đức giám
mục, dám đi bước trước để cống hiến tình huynh đệ.
Sống trong chân lý
Tôi đã nói qua làm thế nào
chúng ta có thể đối phó với nỗi vất vả khi phải
sống trong cái hố ngăn cách không thể tránh được giữa
giáo huấn của Hội Thánh với kinh nghiệm người giáo
dân đang sống, giữa cái trừu tượng với cái đặc thù.
Tôi cũng đã xin thưa rằng chính cái khoảng không gian ấy
có thể lại là nơi để Lời sinh ra đời, cho nên nỗi
đau thương vất vả lại có thể trở thành niềm vui.
Điều đó sẽ trở thành khó khăn hơn, nếu chúng ta đi
tới chỗ hồ nghi tính cách thích hợp, tính cách khéo léo
hoặc thậm chí cả chân lý nơi một số tuyên bố của
Hội Thánh. Đây là một đau thương kinh khủng mà rất
nhiều người – giáo dân, linh mục và giám mục – đã
phải chịu khi thông điệp Humanae
vitae (Sự sống con
người) được công bố. Điều này đẩy chúng ta đến
chỗ chán nản sâu xa hơn nữa. Làm thế nào chúng ta có
thể vẫn trung thành với Hội Thánh, với kinh nghiệm của
anh chị em chúng ta và với cả trọn vẹn chức linh mục
chúng ta ? Donald Cozzens đã viết rằng thách đố đối với
nhiều linh mục chính là ở chỗ “làm sao để là những
con người chân thực của Hội Thánh và đồng thời lại
vẫn là con người của mình”.
Điều quan trọng tiên quyết
là đừng bao giờ nói những gì chúng ta không tin là thật.
Đức Hồng Y Suhard đã viết rằng : “Một trong những
việc phục vụ đầu tiên linh mục cống hiến cho thế
giới là nói lên sự thật”.
Đây là điều Đức thánh cha Gioan Phaolô II mời gọi
chúng ta thực hiện trong thông điệp Veritatis
Splendor (Ánh rạng
ngời của chân lý). Trong một thế giới đang đói khát
chân lý nhưng lại ngờ vực khả năng có chân lý, thì
Đức thánh cha mời gọi chúng ta sống chân thật và trọng
kính những lời lẽ, những ngôn từ chúng ta sử dụng.
Nếu như lời lẽ ngôn từ của chúng ta không vang lên
tính xác thực, thì người ta sẽ nhận ra ngay và sẽ thôi
không còn kính trọng chúng ta nữa. Chúng ta sẽ đánh mất
uy tín, thế giá của chúng ta để công bố Tin Mừng. Tính
cách khả tín của chúng ta sẽ mất đi và uy tín, thế
giá của Hội Thánh cũng bị vạ lây là suy yếu dần dần.
Tệ hại hơn nữa, chúng ta sẽ đánh mất lòng tự trọng
và đi đến chỗ khinh thường bản thân mình, từ đó đâm
ra chán nản thật sự. Chúng ta nói sự thật như thế nào
còn tùy thuộc vào bối cảnh nữa. Ta luôn luôn phải hỏi
xem không biết người ta sẽ nghe như thế nào. Cách ta nói
trong một bài giảng khác với cách ta có thể nói trong
một cuộc họp báo, hoặc trong những lúc trà dư tửu hậu
với bạn bè, hoặc trong một buổi bàn bạc riêng tư với
nhân viên của Vaticanô.
Cách đây hai năm, cuốn nhật
ký của cha Yves Congar ghi lại những năm từ 1946 đến
1956 được xuất bản. Đây quả là một trong những cuốn
sách thương đau nhất tôi đã được đọc. Một con người
thông minh uyên bác, nhạy cảm và được kính trọng như
thế lại từng cảm thấy mình như bị Thánh Bộ đóng
đinh. Cha đã bị buộc phải im lặng, chịu hạ nhục và,
tệ hại hơn cả đối với một người Pháp, bị gửi
sang Anh Quốc để lưu đầy. Thế thì cái gì đã nâng đỡ
cha trong suốt cái đêm mịt mùng tăm tối và đầy chán
nản ấy ? Thưa đó là lòng tin tưởng rằng cuối cùng
chân lý sẽ toàn thắng. Cha đã viết vào năm 1954, tức
là vào thời điểm giữa cơn khủng khoảng : “Nói chân
lý. Một cách khôn ngoan, không tạo gương mù vô ích hay
báng bổ. Nhưng phải, và mỗi lúc mỗi phải nhiều hơn,
là một chứng tá chân thực và tinh tuyền của cái là
thật”.
Điều ấy đòi phải kiên nhẫn vô cùng. Và kiên nhẫn,
theo thánh Tôma Aquinô, chính là trọng tâm của niềm hy
vọng. Chúng ta cần khả năng kiên nhẫn chịu đựng của
những con người tin tưởng rằng chân lý cuối cùng sẽ
xuất đầu lộ diện.
Tôi tin rằng nói sự thật như
thế đòi chúng ta hai điều : can đảm và khiêm tốn.
Chúng ta cần lòng can đảm, vì nói sự thật sẽ không
phải là điều lúc nào cũng được hoan hô, được đón
nhận. Trong Hội Thánh, có sự sợ hãi phải tranh luận,
và có thái độ ngờ vực, cho rằng nếu chúng ta thực sự
bày tỏ những bất đồng của chúng ta, thì uy tín, thế
giá của Hội Thánh sẽ bị xói mòn. Thế nhưng tôi tin là
chẳng có gì làm cho uy tín, thế giá của Hội Thánh bị
xói mòn nhiều cho bằng nỗi ngờ vực khiến chúng ta
không nói được điều chúng ta tin. Không gì làm cho tính
khả tín của lời giảng thuyết của chúng ta bị xói mòn
cho bằng cái cảm thức cho rằng chúng ta là những con
người nhát sợ, không dám đưa bước cho dẫu có thể là
bước sai. Parrhêsia, nói năng dạn dĩ, của các
thánh Tông Đồ nay ở đâu ?
Nhưng nói sự thật cũng đòi
chúng ta một lòng khiêm tốn vô cùng, bởi vì chúng ta
không thể nói như những người lấy sự thật để trói
buộc người khác ! Chúng ta chỉ có thể đóng góp vào
cuộc tranh luận mà thôi, vì tin tưởng rằng sự thật sẽ
xuất đầu lộ diện, và cứ đóng góp dù có thể thấy
té ra chúng ta không đúng. Chúng ta nói ra không phải vì
chúng ta có những câu giải đáp cho bằng chúng ta góp
phần khám phá ra những câu giải đáp. Và vì chúng ta tin
rằng thực ra Chúa Thánh Thần đã được đổ xuống tràn
lan trên Hội Thánh, cho nên cần chúng ta không được quá
lo lắng nếu như cuối cùng chúng ta có sai. Dân Thiên Chúa
sẽ không dễ bị dẫn đi sai đường lạc lối đâu. Tôi
có thể thảy thêm vào hai đồng penny nữa, tin rằng, nếu
như có sai, thì cũng không đến nỗi làm cho mọi cái đều
sụp đổ. Chúng ta không thể tìm ra sự thật trừ phi
chúng ta dám đùa với những ý tưởng, thử đưa ra những
giả thuyết điên rồ để xem chúng đưa ta đi tới đâu.
Cứ đưa ra một ý nghĩ đi và thử thời vận. Nếu chúng
ta không vui hưởng sự tự do – trong bất kỳ ý nghĩa
nào của chữ vui hưởng – thì chúng ta sẽ không bao giờ
có thể kéo mầu nhiệm Thiên Chúa đến gần được.
Có một đường lối của linh
mục để nói sự thật. Hôm qua tôi có nói rằng chức
linh mục của Đức Kitô hệ tại việc mở rộng vòng tay
ôm lấy những gì là xa cách, là tha thể và là xung khắc.
Vì thánh Phaolô nói rằng Đức Kitô “là
bình an của chúng ta : Người đã liên kết đôi bên, dân
Do-thái và dân ngoại, thành một. Người đã hy sinh thân
mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét”
(Ep 2,14).
Việc nói sự thật của chúng ta bao giờ cũng phải có
khả năng chữa lành theo kiểu trên, phải phá đổ mọi
bức tường ngăn cách. Nói sự thật theo kiểu này trực
tiếp đi ngược với kiểu nói sự thật chúng ta đôi khi
thấy nơi các phương tiện truyền thông, có khi là đối
chọi, là gây hấn, là hãnh tiến kiêu căng, là “thẳng
vào mặt”, là gây chia rẽ. Thực ra, việc nói sự thật
của chúng ta có thể đưa chúng ta đến chỗ xung khắc
với những người khác, và chắc chắn chúng ta sẽ bị
hiểu lầm. Nhưng lúc nào cũng vẫn phải là vươn tới
những người chúng ta bất đồng quan điểm, không được
nguyền rủa họ, không bao giờ được chế nhạo họ, mà
phải giải thích những gì họ nói cách tốt đẹp nhất
có thể, và tìm cách khám phá ra sự thật trong những gì
họ nói. Thánh Tôma Aquinô đã viết rằng chúng ta luôn
phải chú ý đến cả những người chúng ta đồng ý lẫn
những người chúng ta bất đồng như nhau. Phải thân ái
với cả hai. “Chúng ta phải yêu mến họ, cả hai, những
người chúng ta chia sẻ ý kiến của họ cũng như những
người chúng ta bác bỏ ý kiến của họ. Cả hai đều đã
nỗ lực truy tầm sự thật và cả hai đã giúp chúng ta
khám phá ra sự thật”.
Việc nói sự thật của linh
mục này, với lòng can đảm và khiêm tốn, sẽ mang đến
cho chúng ta đau khổ. Người ta ra sức để hoặc là bắt
chúng ta vào phe của họ hoặc tố cáo chúng ta là những
kẻ phản bội Hội Thánh. Có thể chúng ta thấy mình được
phong thánh cách giả dối hoặc cảm thấy mình bị lăng
mạ. Có thể chúng ta được thủ vai anh hùng hoặc vai
phản diện. Thay vì lắng nghe xem hiện chúng ta đang nói
gì, lời lẽ ngôn từ của chúng ta sẽ thường bị giải
thích theo những thiên kiến của những người khác. Ông
ấy khuynh tả hay khuynh hữu ? Ông ấy thuộc phía chúng ta
hay thuộc phía họ ? Ông ấy chính thống hay lừng khừng
? Ông ấy có nguyên tuyền không ? Tất cả những điều
ấy có thể là cám dỗ khiến chúng ta thôi thì im lặng
là thượng sách ? Phải liều ? Hay là có một ai khác sẽ
lên tiếng thay. Tuy nhiên, trong Kinh Thánh, ngôi mộ mới
chính là chốn thinh lặng, và chúng ta không được để
cho sự thinh lặng của ngôi mộ nuốt trửng. Chúng ta rao
giảng Chúa Phục Sinh, Đấng đã phá vỡ cái thinh lặng
của ngôi mộ. Thế cho nên chúng ta không thể lặng thinh
được.
Cái đã nâng đỡ cha Congar
trong thời gian đau khổ không phải chỉ là niềm tin của
cha vào chiến thắng tối hậu của chân lý mà thôi, nhưng
là cái cha gọi là “le fait des frères, enfin”, sự
kiện là có những người anh em. Trên hết, chính là với
những người anh em và những người bạn hữu mà cha có
thể nói, biết rằng mình sẽ được anh em lắng nghe thậm
chí anh em có không đồng ý với mình. Trong Hội Thánh,
chúng ta đang rất cần có những nơi ở đó chúng ta có
thể nói và lắng nghe nhau, với lòng tin tưởng, tín
nhiệm, không sợ hãi. Chúng ta đang cần những khoảng
không gian ở đó chúng ta có thể truy tìm chân lý cùng
với những người thoạt đầu chúng ta không đồng ý.
Chúng ta đang cần những khoảng không gian ở đó chúng ta
có thể chia sẻ những xác tín sâu xa nhất của mình mà
không hề lo lắng không biết mình có đúng, có chính xác
không, ở đó chúng ta có thể dám sai, hy vọng rằng có
ai đó sẽ đặt một chút chân lý vào trong những lời lẽ
ngôn từ còn dò dẫm của chúng ta. Chúa đã bảo chúng ta
rằng : “Sự thật sẽ làm cho anh em được tự do”.
Thế cho nên chúng ta cũng cần những khoảng không
gian ở đó chúng ta có thể tự do truy tầm chân lý.
Từng có nhiều chỉ trích phê
bình Thượng hội đồng Giám Mục, vì ở đó có ít
khoảng không gian để đối thoại cho sâu xa, như tôi biết
vì đã được tham dự ba Thượng hội đồng rồi. Thế
nhưng, trách những người khác, đặc biệt là trách các
ông chủ, thì lúc nào cũng vẫn cứ là một việc dễ
dàng. Đúng hơn, nên hỏi xem chúng ta có thể kiến tạo
những khoảng không gian nào trong các giáo xứ, giáo hạt
và giáo phận của mình để ở đó có thể nói một cách
tự do thoải mái. Nói sự thật trong lòng mến là một
nghệ thuật khó lắm. Chúng ta cần phải học. Chúng ta có
thể kiến tạo một nền văn hóa nói sự thật ở chỗ
chúng ta đang ở như thế nào ? Liệu chúng ta có chỉ nói
những gì chúng ta tin tưởng với những người đồng ý
với chúng ta mà thôi không ? Chúng ta phải kiến tạo
những khoảng không gian nào để nói với những người
bất đồng ý kiến với chúng ta ?
Cuối cùng, những khoảng không
gian này có thể trở nên những nơi chốn của niềm vui.
Những lúc tôi cảm thấy hạnh phúc nhất là những lúc
tranh luận với các anh em của tôi, thưởng thức cái thú
của sự bất đồng quan điểm, thưởng nếm niềm vui của
việc tranh luận. Thấy mình không đúng cũng có niềm vui.
Để nói về điểm này, tôi xin mượn đề tựa cuốn
sách của James Alison, tôi chưa đọc, “Niềm vui khi
thấy mình sai”.
Những chuyện tai tiếng
Trước khi tôi rời Anh Quốc
mười năm trước đây, một trong những điều tôi thú vị
nhất là được đọc báo thoải mái. Nay tôi thấy điều
ấy chán phèo. Ngày nào tôi cũng thấy Hội Thánh bị đưa
ra tố cáo. Chúng ta bị tố cáo vì đã thất bại không
lên tiếng bênh vực người Do-thái trong Thế chiến thứ
hai, bị tố cáo là thối nát, và trên hết linh mục và
tu sĩ không ngớt bị tố cáo là lạm dụng tình dục.
Ngày nào chúng ta cũng phải ra đứng trước vành móng
ngựa. Đối với một người sống trong cộng đoàn, những
lời tố cáo như thế đã đủ khó để chịu đựng,
huống chi những người sống một mình thì hầu như là
không thể chịu đựng nổi. Còn mặt mũi nào để gặp
gỡ con người, vì xấu hổ, vì cứ phải thắc mắc không
biết người ta đang nghĩ gì ? Vậy liệu chúng ta có thể
chịu đựng được tất cả những chuyện ấy mà vẫn
giữ được niềm vui như thế nào, hay chí ít cũng không
đến nỗi hoàn toàn chán nản và suy sụp ?
Chúng ta phải chấp nhận chịu
xấu hổ. Đức Giêsu đến kêu gọi người tội lỗi chứ
không phải người công chính, và trong chuyện ấy Người
thành công cực kỳ ! Đây là chuyện tai tiếng của Tin
Mừng, đó là Thiên Chúa đã dựng nhà của mình với
những cô gái điếm và những anh thu thuế, và nay thì
Người cũng vẫn còn tiếp tục làm như vậy. Hội Thánh
là thánh thiện, đúng như thế. Nhưng đó không phải là
sự thánh thiện của Cựu Ước, tức là hàm ý tách biệt
khỏi những người tội lỗi. Đấy là sự thánh thiện
tai tiếng của Đức Kitô, Đấng đã mở rộng vòng tay ôm
lấy những người ô uế, những người tội lỗi, những
người thua thiệt và những người chết. Mang lấy sự
liên đới với nhân loại tội lỗi là một phần trong
việc chia sẻ chức tư tế của Đức Kitô.
Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh,
chúng ta nghe lời của ngôn sứ Isaia : “Người đã bị
thoá mạ mà chúng ta nào có quan tâm gì tới, những đau
khổ là của chúng ta, Người lại mang lấy hết, những
buồn phiền là của chúng ta Người chịu lấy cả. Thế
mà chúng ta lại cứ nghĩ Người là một kẻ bị Thiên
Chúa trừng phạt, đánh đòn và hạ thấp”. Cho nên
nhẫn nhục chịu đựng xấu hổ về những chuyện tai
tiếng ấy có lẽ là cách để chúng ta chia sẻ cuộc
thương khó của Đức Kitô, mang lấy những lời trách cứ,
những lời tố cáo là những kẻ tội lỗi. Mỗi thế hệ
đều có đường lối riêng để chia sẻ cuộc thương khó
ấy. Thế hệ chúng ta thì có sự xấu hổ về tất cả
những lời tố cáo trên, nhất là tố cáo lạm dụng tình
dục. Hẳn nhiên, việc này tiên vàn có nghĩa là xưng thú
các tội lỗi của mình và đi tới những nạn nhân, xin
họ tha thứ. Và lẽ nào việc này lại chẳng có nghĩa là
hiện diện bên những người linh mục bạn mình đã phạm
tội, và ở bên những người anh em ấy trong những lúc
họ phải chịu xấu hổ trước mặt mọi người ?
Tôi có cảm tưởng là trong
cuộc họp tại Dallas, Hoa Kỳ, các giám mục Hoa Kỳ vì
cảm thấy quá xấu hổ đối với chuyện tai tiếng ấy
cho nên có lẽ các ngài đã hoảng mà đâm ra như thể
ruồng rẫy những người phạm tội. Đức Kitô đã đứng
bên những người tội lỗi như thế nào, thì chúng ta
cũng phải như vậy. Tôi đọc thấy rằng có một vị
giám mục chủ trương rằng giáo phận của mình không thể
bồi thường những việc làm sai trái của các linh mục
trong giáo phận mình được, vì các linh mục ấy là những
người ký hợp đồng độc lập ! Một tờ báo địa
phương nêu câu hỏi : Thế Đức Giêsu có tỏ ra Người
như là một người ký hợp đồng độc lập không ?
Chuyện tai tiếng lạm dụng là khủng khiếp. Nhưng có lẽ
cũng là kinh khủng khi pha trộn chuyện tai tiếng ấy với
chuyện tai tiếng là phân cách Hội Thánh chúng ta ra khỏi
những người đã mắc tội lạm dụng. Tôi biết chuyện
này sẽ nảy sinh những vấn đề phức tạp vô cùng, mà
tôi không có một lời giải đáp rõ rệt nào. Đây không
phải là lúc để đi sâu vào vấn đề này. Nhưng ít ra,
chúng ta đừng để mình hoảng hốt mà đâm ra ruồng rẫy
những người có tội. Điều này có thể cũng gây ra tai
tiếng, nhưng có thể đó là tai tiếng của Tin Mừng.
Tôi xin thêm một nhận định
nữa. Qua báo chí, tôi nhận thấy có một sự hàm hồ sâu
xa về Hội Thánh. Đó là Hội Thánh vừa bị tố cáo lại
vừa được kính trọng. Đức thánh cha Gioan Phaolô II vừa
là một người đạt kỷ lục vĩ đại về chủ nghĩa tự
do, lại vừa là người đưa ra đường lối lãnh đạo về
luân lý mạnh nhất trên thế giới. Tôi có cảm tưởng
là trong nước chúng ta, Hội Thánh có thẩm quyền về
luân lý hơn bất cứ tầng lớp nào kể từ thời Cải
Cách, nhưng các nhà báo lại sẵn sàng chộp bất cứ cơ
hội nào có thể để làm cho Hội Thánh mất uy tín. Không
hiểu sắp tới còn gì nữa ?
Có lẽ có hai chuyện : Trước
hết, xã hội của chúng ta khát khao sự hướng dẫn lãnh
đạo về luân lý, nhưng đó là kiểu luân lý của những
người Biệt Phái (ít ra như được vẽ lên trong các sách
Tin Mừng). Họ khát khao có ai đó đưa ra những qui tắc
luân lý, không mơ hồ, và họ mong chờ chính Hội Thánh
sẽ làm điều ấy. Nhưng rồi họ bị vấp phạm, giống
như những người Biệt Phái, khi thấy rằng chúng ta cũng
yếu đuối và tội lỗi. Họ mong mỏi ở chúng ta sự
hướng dẫn lãnh đạo về luân lý, nhưng lại không thấy
rằng trọng tâm của luân lý Kitô giáo chính là sự tha
thứ, và Thiên Chúa lại chọn một lô những cá tính đầy
nghi ngờ và và tội lỗi làm bạn hữu và làm người
phục vụ. Phải chăng Hội Thánh đôi khi quá an tâm vì
được người ta mong mỏi ở mình một cái gì đó, hướng
dẫn lãnh đạo về luân lý chẳng hạn, đến độ lại
không cống hiến được trọng tâm của chính luân lý
Kitô giáo, tức là liên đới với những người tội lỗi
chăng ? Liệu chúng ta có bị bắt ép hoặc bị dụ dỗ
nhảy vào chơi cuộc chơi của một ai đó khác không ?
Tuy nhiên, có điều này còn mơ
hồ hơn nữa : Cái trung tâm mua sắm vĩ đại chính là cái
thế giới của chúng ta hiện nay. Bề ngoài ra như nó sẵn
sàng thoả mãn bất kỳ điều gì tâm hồn con người khao
khát. Mọi thứ người ta có thể cần đều được bày
bán ở đây. Những khát vọng mới cứ luôn luôn được
sáng chế ra để làm cho người tiêu thụ sập vào cái
bẫy trung tâm mua sắm giăng ra mà tìm thoả mãn không dứt.
Nhưng mà chúng ta lại bị cái giấc mơ muốn nhiều hơn
thế nữa ám ảnh, mơ niềm vui không thể có được, rồi
hạnh phúc không thể tưởng được, tức là những thứ
không phải cứ tới Sainsbury mua là được. Hội Thánh vẫn
còn nét hấp dẫn vĩnh cửu chắc chắn là ở điểm này.
Hội Thánh đã và vẫn đang là ngôi nhà cho những con
người mang đậm dấu vết của niềm vui đầy kích động
như thế. Xã hội của chúng ta nhận thấy nét lôi cuốn
vĩnh cửu nơi những con người như thánh Phanxicô Assisi
hay Mẹ Têrêsa Calcutta, điều ấy cho thấy rằng cơn đói
khát hạnh phúc mênh mông vẫn chưa chết hẳn. Từ sâu
xa, chúng ta biết rằng trung tâm mua sắm rồi cuối cùng
lại cũng sẽ thành nhàm thành chán.
Thế nhưng nếu các vị thánh
ấy đúng, tức thị niềm vui đòi chúng ta một cuộc
phiêu lưu anh hùng mà chúng ta không được sợ phải xông
vào. Chúng ta biết rằng cuộc phiêu lưu mời gọi chúng
ta bỏ lại đằng sau những thỏa mãn nông cạn của trung
tâm mua sắm để lên đường. Và đây là điều dễ làm
cho ta hoảng sợ. Tôi có ý nói rằng một số điều mơ
hồ của báo chí về Hội Thánh phát xuất từ cái tâm
hồn bị phân chia trên kia. Nó cứ ước ao muốn tin rằng
niềm vui không thể tả, không thể tưởng là có thể có,
nhưng lại sợ phải khám phá thấy niềm vui ấy đang ở
đây này. Nếu niềm vui ấy là có thể, tất nhiên chúng
ta phải khởi sự một cuộc hành trình vất vả gian nan.
Đấy chính là nguyên do tại sao lại có cả một cảm
thức nhẹ tênh khi thấy hoá ra các thánh cũng có những
bàn chân bằng đất sét. Xét cho cùng chẳng cần lắng
nghe họ. Nhẹ tênh như thế nào ! Jean-Louis Bruguès, một
giám mục Đa Minh người Pháp, có viết rằng người xuất
thân từ một miền đất vốn đức tin sâu xa nhưng chống
chủ nghĩa giáo sĩ cũng lại mạnh mẽ không kém. “Người
ta không hề khoan nhượng với linh mục tu sĩ, người ta
muốn họ là những con người mẫu mực và không một yếu
đuối nào của họ được dung thứ. Chỉ một lỗi nhỏ
của họ thôi là người ta la toáng lên. Thế nhưng người
ta lại mong được hiểu, được thông cảm thật nhiều
đối với những lỗi lầm của người ta. Những người
thánh hiến đã biến thành một vật thay thế cho sự toàn
hảo mà đại đa số hằng mơ ước và xét thấy không
thể có được”.
Tôi nghĩ rằng xã hội của chúng ta bị giấc mơ về một
niềm vui tuyệt hảo ám ảnh, cho đó là không thể nhưng
lại rất khát khao và cũng lại vừa sợ hãi vừa hy vọng
khám phá được. Đó chính là căn nguyên của sự mơ hồ
dính dáng đến Hội Thánh.
Đó là lý do tại sao khi đối
diện với những lời tố cáo, xấu hổ và tai tiếng,
chúng ta cần phải giữ lấy giấc mơ về một niềm vui
ra như không thể được như thế trong tâm hồn chúng ta
cho sinh động. Chúng ta cũng có thể bị cám dỗ đầu
hàng và tìm thỏa mãn trong những chuyện vặt vãnh. Tôi
nhớ là vào năm 1965 khi tôi vào Dòng, lúc đó tôi mới
hai mươi tuổi, còn trẻ, tôi mơ mình sẽ trở nên thánh
thiện, có lẽ lúc đó tôi còn mơ trở thành một ông
thánh nữa cơ. Rồi đến một cảm thức khủng khiếp khi
khám phá thấy rằng vào cuối thập niên sáu mươi thì
một ý tưởng như thế đã lỗi thời rồi. Bây giờ thì
chúng ta lại mong mỏi sự công chính của Vương Quốc.
Muốn trở nên thánh thiện hình như bây giờ lại bị xem
là hơi ích kỷ và qui ngã. Thật là nhẹ tênh khi ra như
không còn gì câu thúc ta vào cuộc vật lộn để nên
thánh thiện nữa. Tuy nhiên, thánh thiện kiểu đó chỉ là
mây bay gió thoảng không thể duy trì được lâu. Nhà
giảng thuyết phải để cho niềm vui nhiệm mầu đụng
chạm tới, niềm vui ấy chính là sự thưởng nếm Vương
Quốc trước vậy. Nhưng mơ một niềm vui như thế sẽ
không thể nào thành hiện thực được nếu không có một
cuộc biến đổi chính bản thân, cho nên, giống như thánh
Âu Tinh, tôi thấy mình cũng phải thưa với Chúa : “Xin
làm cho con nên thánh, nhưng chưa phải ngay bây giờ”. Nếu
ngay bây giờ chúng ta chỉ sống với một chút xíu niềm
vui của Vương Quốc thôi, thì niềm vui ấy sẽ lây lan
rất mạnh và chúng ta sẽ có thể cống hiến lời giảng
tuyệt vời hơn bao giờ hết. Nhưng như thế lại có thể
khiến cho người ta không tin, nghi ngờ và tố cáo, như
Đức Giêsu đã phải chịu khi Người tiệc tùng với các
cô gái điếm và những người thu thuế.
Đừng quên cốt truyện !
Suốt hai bài nói chuyện vừa
qua, tôi đã nói rằng niềm vui ở ngay chính giữa ơn gọi
linh mục chúng ta. Vào thời điểm này, có đủ thứ
nguyên do giải thích tại sao chúng ta lại cảm thấy chán
nản, và đôi khi tất cả chúng ta không thể thoát khỏi
ưu sầu được. Tuy nhiên, Tin Mừng chúng ta có nhiệm vụ
rao giảng qui tụ chúng ta trở về với niềm vui. Tin Mừng
cũng đánh thức nỗi buồn phiền và nóng giận trong con
người chúng ta, nhưng không có sự chết hay chán nản
hoàn toàn. Vì như thế là đi ngược với chính ý nghĩa
của cuộc đời chúng ta.
Làm cách nào chúng ta có thể
duy trì hoặc làm sống lại niềm vui đó ? Hôm nay tôi chỉ
xoay quanh một số thách đố mà linh mục chúng ta đang
phải đương đầu trong khi chúng ta sống hài hoà với Hội
Thánh phổ quát. Và tôi đã cố gắng, tuy rất là khập
khiễng, để nêu lên cho thấy làm thế nào để trong mỗi
một trường hợp chúng ta đều có thể khám phá ra những
tia sáng le lói của niềm vui. Hố ngăn cách giữa giáo
huấn của Hội Thánh, nhất là giáo huấn về luân lý,
với kinh nghiệm của xã hội chúng ta quá lớn đến nỗi
có thể làm cho chúng ta cảm thấy như là phải gánh một
gánh nặng giáo huấn xem như xa vời, không thể hiểu và
không thực tế. Chúng ta đang sống trong cái hố ngăn cách
đó với một tâm hồn bị phân chia. Tuy nhiên, có thể
đấy lại chính là nơi sinh nở, nơi Lời trở thành xác
phàm theo một cách thức mới, nhập thể một cách thắm
tươi vào thế giới phàm tục của chúng ta. Sinh nở vẫn
luôn luôn là vất vả đau đớn nhưng cuối cùng là vui.
Chúng ta phải có sự kiên nhẫn của các bà đỡ. Chúng
ta nói chuyện tầm phào quanh chiếc giường. Nhưng là kiên
nhẫn chờ đợi.
Rồi đến cơn đau dữ dội
hơn, ấy là khi một số trong chúng ta đâm ra ngờ vực
một vài tuyên ngôn chính thức của Hội Thánh. Vậy,
chúng ta có thể giảng dạy mà vẫn không mất đi tính
cách toàn vẹn và lòng trung thành của chúng ta như thế
nào ? Chúng ta cần mở ra những khoảng không gian dành cho
việc đối thoại trong Hội Thánh, ở đó chúng ta có thể
cùng nhau tái khám phá niềm vui của việc đi tìm chân lý,
và cả niềm vui vì không sợ lỡ có sai. Sau hết, chúng
ta chia sẻ nỗi nhục nhằn và xấu hổ trong những lời
tố cáo chống lại Hội Thánh chúng ta yêu mến. Ở đây,
chúng ta phải dám nên giống như Đức Kitô, “Đấng
vì niềm vui đã được đặt ở phía trước, mà cam chịu
khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục, và nay đang
ngự bên hữu ngai Thiên Chúa” (Hr 12,2).
Chúng ta có thể nuôi dưỡng
niềm vui ấy như thế nào ? Chúng ta phải bám sát cốt
truyện ! Cốt truyện thật là cốt truyện chúng ta đi vào
khi chúng ta chịu phép thánh tẩy : cuộc thương khó, cái
chết và sự phục sinh của Đức Kitô. Chính chúng ta sẽ
kể câu chuyện gì ? Bi kịch nhờ đó chúng ta sống là bi
kịch nào ? Phải đó là câu chuyện đi tìm niềm vui trong
việc tiêu thụ ? Chúng ta là những thành viên của một
xã hội sống bằng những câu chuyện khác nhau. Thực vậy,
xã hội phương Tây ở vào đầu Thiên niên kỷ thứ ba là
một xã hội thượng tôn những câu chuyện thị trường,
chợ búa. Thế giới theo chủ nghĩa tư bản cổ xưa, sản
xuất hàng hoá và đem bán, nay biến mất. Ngày nay, kỹ
nghệ rộng lớn nhất là giải trí, là bán những bi kịch
nói về “xã hội kinh nghiệm” mới của chúng ta.
Cuộc sống đang trở thành trò giải trí và câu chuyện
đặc trưng của nền văn hóa chúng ta chính là các soap
opera0.
Cái gì cũng đều được chuyển đổi thành soap
opera đang diễn, đấy
chính là nền văn hóa phương Tây. Chuyện nổi, chuyện
chìm của các ngôi sao, của các nhân vật danh tiếng,
chuyện những vụ tai tiếng của các chính khách, chuyện
tội lỗi của các linh mục tu sĩ. Mọi chuyện đều được
chuyển đổi thành sản phẩm đang diễn của “Con Đường
Đăng Quang”, tức là câu chuyện của cuộc đời chúng
ta. Đây là những bi kịch hình thành nên tâm thức chung
của chúng ta cũng như nên hình ảnh của Hội Thánh. Thành
công và thất bại của chúng ta cũng trở thành một phần
của kỹ nghệ giải trí nốt.
Trong những câu chuyện này,
không hề thấy đá động gì tới vận mệnh tối hậu
của nhân loại. Những điều không tưởng nay đã biến
mất. Đây là một xã hội với một chút xíu ý nghĩa về
tương lai. Chúng ta đang sống trong Cái Bây Giờ. Người
ta cho bảo rằng “tương lai đang được rút ngắn lại
để trở thành cái ngắn hạn của hiện tại, cái tương
lai đó chúng ta có thể suy ra từ cái hiện tại này, cái
tương lai đó chúng ta đã định vị được rồi và đã
sắp xếp được nó rồi”1.
Câu chuyện dài duy nhất đang bắt đầu hình thành tâm
thức của nhân loại chính là câu chuyện về hành tinh
này. Câu chuyện kể rằng có thể xảy ra thảm họa sinh
thái và chắc chắn trái đất bị chết cóng. Nhưng đấy
không phải là câu chuyện đem lại cho cuộc sống nhân
loại một ý nghĩa nào cả. Xét như một nền văn hóa,
chúng ta không có một câu chuyện dài nào để kể về
nhân loại cả. Lịch sử đã kết thúc. Đấy chính là lý
do tại sao soap opera
lại là nét đặc trưng của thời đại, vì đó chỉ là
hồi này tiếp nối hồi kia, không có hậu.
Một lão phụ sa mạc đang ngồi
ở lối vào túp lều của ông, chợt ông thấy đám thanh
niên đi qua, cười đùa chọc ghẹo nhau. Ông tức. “Chúng
bay đang đối diện với ngày chung thẩm, thế mà còn dám
cười với cợt nữa à ?” Đối với phần lớn chúng
ta, hẳn là có một nẻo khác. Chúng ta dám vui là vì chúng
ta biết rằng Con Đường Đăng Quang không phải là cứ đi
mãi đi mãi đến vô tận được (thú thật là tôi chưa
hề nhìn thấy Con Đường Đăng Quang bao giờ). Tât cả
chúng ta đều được đưa vào một câu chuyện, câu chuyện
này, nhờ lòng thương xót của Thiên Chúa, đưa dẫn chúng
ta tới niềm vui. Có điều chúng ta phải bám sát cốt
truyện.
Đây là câu chuyện làm nên
từng năm phụng vụ của chúng ta. Như tôi đã nói hôm
qua, tôi tin rằng chúng ta còn cần nhiều hơn nữa. Chúng
ta cần vun đắp một lối sống giúp chúng ta thưởng nếm
sự nghỉ ngơi và niềm vui của Vương Quốc ngay từ bây
giờ. Chúng ta cần một nhịp điệu cho cuộc sống –
hằng tuần, hằng tháng, hằng năm – để giúp chúng ta
triển nở hơn là chỉ để sống còn. Mặt khác, chúng ta
có thể thực hiện được một chế độ giải trí điều
độ và rồi sẽ thấy cuộc sống của chúng ta cũng như
những vở soap opera, ngày này qua ngày nọ, hồi này
nối tiếp hồi kia, nhưng không phải chẳng đưa chúng ta
đến chỗ nào hết, cũng chẳng làm cho chúng ta tìm thấy
bầu khí vui tươi đâu. Không biết có ai trong anh em ở
đây đã xem phim “The Mysteries” (Các Huyền Nhiệm)
chưa. Đây là một cuốn phim của Nam Phi, nói về một trò
chơi huyền nhiệm. Nó dẫn chúng ta đi từ công trình sáng
tạo thế giới đến cuộc Phục Sinh. Phim làm cho người
ta cười từ đầu đến cuối. Đúng là phim vui, vì nó kể
câu chuyện thật của chúng ta.
Thường thì chính Dân Thiên
Chúa giữ cho kỷ niệm ấy luôn sống động khi chúng ta
gặp nguy cơ quên kỷ niệm ấy. Chúng ta cũng cần nhắc
nhở nhau. Khi Đức Giêsu ra đi đối diện với cái chết,
đối diện với thất bại và sụp đổ, Người nói với
các môn đệ : “Thầy nói với anh em những điều ấy,
để trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em
sẽ phải gian nan khốn khó, nhưng can đảm lên ! Thầy đã
thắng thế gian” (Ga 16,33). Trong cộng đoàn
Kitô hữu, mỗi chúng ta đều là người bảo vệ gìn giữ
những lời ấy cho nhau, để chúng ta được phấn chấn
hơn, được mạnh dạn hơn. Là linh mục, chúng ta có thể
duy trì kỷ niệm ấy cho nhau như thế nào ?